Bài văn mẫu cảm nhận Bài ca ngất ngưởng sẽ giúp các em thấy được nhân cách nhà nho chân chính, cái tôi tài hoa, cá tính cùng phong cách “ngông nghênh” đầy mới lạ của nhà thơ Nguyễn Công Trứ được thể hiện trong bài thơ.
Đề bài: Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
5 bài văn mẫu Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
1. Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu số 1:
Nói đến những nhà thơ nửa đầu thế kỷ XIX không thể không nhắc đến nhà thơ - ông quan thị lang triều Nguyễn: Nguyễn Công Trứ. Đây là mọt nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, một phần nhân vật hăm hở lập công, hết sức đề cao chí làm trai và cách sống rất độc đáo, luôn tự do, phóng túng.
Nguyễn Công Trứ được coi là một trong những thi sĩ nổi tiếng nhất đương thời, ông có công lớn trong việc nâng thể hát nói thành thể thi ca có khả năng biểu hiện những tình cảm phong phú và tinh tế.
Trong số những bài thơ của Nguyễn Công Trứ sáng tác theo thể hát nói, nức danh hơn cả là bài thơ Bài ca ngất ngưởng. Đây là một tác phẩm được sáng tác sau khi tác giả rời bỏ chốn quan trường về quê nhà sống cuộc đời ẩn dật. Đây cũng là lúc chất ngạo nghễ, ngất ngưởng vốn có của cụ Thượng Trứ được bộc lộ một cách đầy đủ nhất. Dẫu sao, tuy là một nhân vật có bản lĩnh, giàu cá tính, nhưng khi còn đang làm quan, Nguyễn Công Trứ cũng không thể sống một cách tự do, ông vẫn phải tuân thủ những luật lệ của triều đình. Và như lịch sử đã ghi lại, trong nhiều triều đại phong kiến thì triều đại Nguyễn vẫn được coi là một triều đại có những thiết chế hết sức gò bó, phi lí, phi nhân đạo nhất.
Bằng Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ đã trình bày một cách thật sinh động, độc đáo bản sơ yếu lí lịch của mình và bao trùm bài thơ, người đọc có thể cảm nhận một lối sống khác người, khác đời của tác giả. Lối sống của ông đối lập với lối sống của tập đoàn, đối lập với những quan niệm chính thống lúc bấy giờ.
Trước hết, ngay tiêu đề của bài thơ đã khiến người đọc phải chú ý, phải suy nghĩ. Cái độc đáo của Nguyễn Công Trứ phải chăng được thể hiện ngay trong cách ông đặt tiêu đề của bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Theo cách hiểu thông dụng, ngất ngưởng chỉ thế cao mà không vững, dễ đổ vỡ. Thí dụ: Bình hoa để ngất ngưởng. Ngoài ra, ngất ngưởng còn có nghĩa là chỉ người đi thẳng, không vững, lúc tiến lên phía trước, lúc thì ngả sang phải, lúc ngả sang trái...Đọc kỹ bài thơ, chúng ta có thể nhận thấy tiêu đề của bài thơ này góp phần quan trọng trong việc diễn tả thái độ, tư thế của nhân vật trữ tình - tác giả luôn vươn lên trên thói tục, sống giữa tập đoàn, giữa mọi người mà khác đời, khác người, bất chấp mọi người.
Những bài văn Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ hay nhất
Nguyễn Công Trứ thường nói đến chí nam nhi theo tinh thần nho giáo. Trong bài Chí làm trai, nhà thơ khẳng định:
Chí làm trai nam, bắc, đông, tây
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể
Ở Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ cũng mở đầu bằng một câu chữ Hán có tính chất tuyên ngôn thể hiện cái chí làm trai nói trên: mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không là phận sự của ta:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Đây chính là điều mà Nguyễn Công Trứ tâm niệm. Chẳng thế mà luôn được ông nhắc đến trong rất nhiều bài thơ trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, vũ trụ chức phận nội (việc vũ trụ là phận sự của ta - Gánh trung hiếu), vũ trụ ngã phận sự (Những việc trong vũ trụ là phận sự của ta - luận kẻ sĩ). Theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ, đã sinh ra làm đấng tu mi, thì nhất thiết phải có danh gì với núi sông, phải làm những việc lớn lao, phải được ghi vào sử sách. Cái hay của câu thơ mở đầu chính là triết lí sống đúng đắn và tình cảm chân thành của tác giả. Muốn xã hội tiến bộ, mỗi con người phải tự khẳng định mình, phải cố gắng cao nhất làm được một việc gì đó có ích cho đời để có thể tự hào với mọi người. Khát vọng đó, quyết tâm đó là chính đáng, là rất đáng trân trọng; nhất là một khi nó được thể hiện một cách trực tiếp với một thái độ chan thành của nhà thơ.
Tiếp đó, Nguyễn Công Trứ tự xưng tên mình, tự khẳng định tài năng của mình:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Lâu nay, câu thơ này ít nhất đã có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất cho rằng: ông Hi Văn, một con người tài giỏi đã vào vòng cương tỏa của triều đình (như con chim yêu tự do, thích bay trên bầu trời cao rộng, nay bị nhốt vào lồng), và do đó, ông không thể sống ngất ngưởng như mình muốn. Cách hiểu thứ hai: ông Hi Văn là người toàn tài, có thể sánh ngang với trời đất; lồng ở đây được hiểu là trời đất, là vũ trụ, trong quan niệm của người xưa thì đất có hình vuông và trời có hình tròn. Có lẽ cách hiểu thứ hai thuyết phục hơn, nhất quán hơn so với cách hiểu thứ nhất; đặc biệt nếu đặt trong cảm hứng bao trùm bài thơ, cách hiểu này có văn cứ hơn. Vả chăng, nội dung hai câu đầu thường sẽ chi phối toàn bộ bài thơ, mà cảm hứng chủ đạo trong bài thơ này chính là cảm hứng ngạo nghễ, ngất ngưởng chứ không phải là nỗi niềm oán thán về việc mất tự do..Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. Nói trực tiếp về mình, gọi hiệu mình ra mà nói là cách diễn đạt rất Nguyễn Công Trứ. Trước cụ Thượng Trứ, bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng có lần xưng danh:
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
(Mời trầu)
Và tác giả truyện Kiều cũng đã từng xưng hiệu trong một câu thơ ai oán của Độc Tiểu Thanh kí:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Không biết ba trăm năm sau nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như)
Nhưng quả thật chưa ai xưng danh rồi sau đó lại dám khẳng định luôn mình là người có tài năng như Nguyễn Công Trứ. Có điều, câu thơ tác giả nói về mình nhưng tựa như nói về người khác, nói một cách tự nhiên, hồn nhiên.
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng,
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Đoạn thơ trên bộc lộ sự tự khẳng định niềm tự hào về tài năng văn võ song toàn của mình. Tuy vậy, cái hay của đoạn thơ trên trước hết xuất phát từ thái độ chân thành, hồn nhiên và sự trung thực của tác giả. Tiểu sử Nguyễn Công Trứ quả đã có ghi: Vào năm 1819, ông đã đỗ thủ khoa kì thi Hương; 7 năm sau, Nguyễn Công Trứ làm tham tán công vụ, đến năm 1831 ông làm Tổng đốc tỉnh Đông (Hải An). Lúc 62 tuổi, ông được cử đi đánh thành Trấn Tây...Tuy là một người xuất thân quan văn, nhưng Nguyễn Công Trứ đã từng chỉ huy đánh tiểu phỉ ở biên giới phía Bắc, đánh giặc ở biên giới Tây Nam, rồi đàn áp các cuộc nổi loạn của nông dân.
Sau câu thơ đầu vừa phân tích trên đây là hết sức quan trọng trong tạo nên cái cần thiết để tác giả tự bộc lộ một lối sống ngất ngưởng ở những câu thơ tiếp theo bằng giọng tự trào nhưng rất có duyên thông qua việc ông tự mô tả mình và lối sống của mình:
Đô môn giải tổ chi niên.
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Đối với những nhà giàu sang quyền quí khi xưa, ngựa là phương tiện giao thông chủ yếu. Đi ngựa là thể hiện sự sang trọng và quyền lực. Nhưng cụ Thượng Trứ lại khác đời: cụ không đi ngựa mà lại đi xe do con bò cái lông vàng kéo, rong chơi khắp chốn. Đã thế, trước cửa xe, cụ để bôn câu thơ trên một tấm mo cau:
Xuống ngựa, lên xe, nọ tưởng phàm
Lợm mùi giáng chức với thăng quan
Điền viên dạo chiếc xe bò cái
Sẵn tấm mo che miệng thế gian
Quả thật, ở con người Nguyễn Công Trứ có sự tương phản gay gắt. Sự tương phản này tạo nên nét hấp dẫn của tác giả, một tay ngất ngưởng: bò vàng lại đeo đạc ngựa, vôn tay kiếm cung mà lại từ bi, đi chùa mà lại mang theo cả ...một đôi dì. Điều ấy khiến cho kẻ hiền lành, thoát bụt cũng cảm thấy nực cười.
Vậy, vì sao Nguyễn Công Trứ sống giữa chốn danh lợi bon chen như thế mà vẫn bình thản, thoát khỏi lẽ thường ở đời, nhất là đối với một quan lại triều đình trong chốn hoan lộ vốn bất bằng? Có lẽ vì một lẽ đơn giản ngay trong tiềm thức, trong ý thức sâu xa của mình, ông đã không quan tâm đến cái được, cái mất ở đời. Ta còn nhớ trong ngót ba mươi năm chốn quan trường, có lúc Nguyễn Công Trứ làm đại tướng,có khi chỉ là một anh lính thú ở chốn biên ải. Tuy thế, lúc nào ông cũng bình thản như ngọn gió xuân, mặc cho thiên hạ khen hay chê:
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Và nguyên nhân cốt lõi của thái độ sống này, của cái ngất ngưởng này chính là sự ý thức đầy đủ về cái tôi cá nhân, cá thể của mình, cũng như ý thức về tài năng và phẩm hạnh cùa mình.
Câu kết bài thơ, Nguyễn Công Trứ nhấn mạnh thêm một lần nữa cảm hứng ngất ngưởng bằng câu: Trong triều ai ngất ngưởng như ông? Câu nghi vấn nhưng lại chính là câu khẳng định: trên đời này không ai độc đáo, ngạo nghễ, ngất ngưởng bằng thi sĩ Nguyễn Công Trứ.
Đặt trong chế độ phong kiến, Bài ca ngất ngưởng có ý nghĩa về nhiều phương diện. Nó ít nhiều báo hiệu sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, cá thể trong hoàn cảnh cái tôi không được thừa nhận. Nó ghi nhận một bước tiến đáng kể trong lịch sử dân tộc theo hướng dân chủ hóa.
Ngày nay, lối sống và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ có thể cần được tiếp thu một cách cân nhắc. Tuy nhiên, bài thơ Bài ca ngất ngưởng vẫn có ý nghĩa, trước hết trong việc khích lệ người đọc hãy sống mạnh mẽ, hãy sống có ích để cuộc đời mình ngày một có ý nghĩa, không chấp nhận một cuộc sống tẻ nhật, vô nghĩa.
2. Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu số 2:
Nguyễn Công Trứ được mệnh danh là nhà thơ ngất ngưỡng của Việt Nam với những phong cách rất riêng biệt, nó tạo nên một tính ngông trong phong cách sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật của Người, đặc biệt chúng ta bắt gặp phong cách đó trong tác phẩm bài ca ngất ngưởng.
Trong bài thơ tác giả đã thể hiện đúng thái độ tâm trạng, và phong cách của chính mình, với những cách xưng hô mang một cái nhìn đầy chất ngông, vũ trụ ở đây đã chỉ một không gian vô cùng rộng lớn và mênh mông, nhưng lại dường như không có một chút phận sự nào, ở đây tác giả dường như đang chê trách những đấng nam nhi trong đất nước, tác giả mở đầu cũng để thể hiện một nỗi lòng muốn thể hiện quan niệm về vai trò và trách nhiệm của mình đối với đất nước, đó là những việc làm cần thiết và vô cùng xứng đáng đối với những đấng nam nhi được sinh ra trong đất nước:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Nhà thơ với một quan niệm vô cùng ngông nghênh, nó thể hiện luôn phong cách của ông, ông là một người thích tự do, chính vì vậy ông cho rằng làm quan là một việc trói buộc chính vì vậy, ông luôn luôn cương quyết thích sống một cuộc sống tự do, tự tại, không muốn điều gì cản trở sự tự do của chính bản thân mình, từ vào lồng trong câu thơ đã thể hiện một thái độ không thích với chốn quan trường, đây là một nơi đấu đá và không được sống tự do, chính vì vậy, từ khi ông đỗ đạt làm quan, ông cảm thấy cuộc đời mình đã bị bó buộc vào nơi đây, ông không thích và muốn sống tự tại, do con người và bản tính ngông nghênh của ông.
Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng để thấy được cá tính độc đáo của Nguyễn Công Trứ
Tất cả những điều mà ông thể hiện trong tác phẩm đó đều thể hiện tính cách của ông khi làm quan, tính cách của ông không chỉ thể hiện qua các tác phẩm nghệ thuật, mà nó còn được thể hiện trong lúc ông là quan, ông liệt kê các chức tước trong triều đình như thủ khoa, tham tán, tổng đốc... đây đều là những vị trí mà họ đã phải cố gắng để có được, chính vì vậy về địa vị họ đã hơn rất nhiều người, đây là điều mà tác giả thể hiện sự ngất ngưởng của mình không chỉ riêng trong cuộc sống, mà trong rất nhiều việc khác, ông cũng luôn thể hiện một thái độ tích cực và mang lại cho người đọc nhiều suy ngẫm và có nhiều ý nghĩa to lớn, ông đã thể hiện sự ngất ngưởng của mình qua địa vị. Và đây không chỉ là điều để ông thể hiện được tài năng của chính bản thân mình, mà còn cho người đọc biết được con người của ông:
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Khi tuổi trẻ luôn phấn đấu để trở thành một vị quan, và ông cũng luôn thể hiện sự ngất ngưỡng trong con đường làm quan của mình, nhưng ông còn thể hiện sự ngất ngưởng đó qua cả thái độ của mình khi về quê, ông từ bỏ cuộc sống chốn quan trường và từ quan ở ẩn, ông không những đã thoát khỏi cái lồng đã chôn chân ở đó, mà ông luôn mong ước mình sống một cuộc sống tự tại, tự do, đó là những điều mà ông luôn luôn mong muốn để đạt được, những điều đó nó thể hiện ngay trong thái độ và cảm quan của ông trong khi sáng tác nên chính tác phẩm này, giá trị của nó không chỉ để lại cho con người nhiều cái nhìn mới mẻ mà nó còn để cho người đọc thấy được thái độ ngông cuồng và tự tại của ông:
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Từ khi ông trút bỏ áo quan để về nhà ở ẩn, ông đã thể hiện một thái độ khác người, phong cách của ông không giống ai, ông bình dân mà thể hiện một con người vô cùng bình dị và thể hiện một thái độ vô cùng gần gũi với tất cả mọi người, ông đã dùng những hình ảnh rất đỗi gần gũi, đó là một cuộc sống tự tại và cũng được hưởng lạc từ thiên nhiên, ông trở về sống bên cạnh những núi sống, mây trắng. Thái độ của ông khiến cho người đọc có một cái nhìn lạ, bởi nó khác thường so với những người khác, nhưng chính điều đó lại làm nên cuộc đời của ông khác lạ và mang lại cho ông một phong cách riêng, nó đặc trưng cho cá nhân và con người của ông. Ông không quan tâm đến những lời khen chê của người khác đối với ông đó đều là những chuyện nhỏ mà ông không quan tâm tới, ông say mê trong những cuộc chơi lạ kì và những vui thú của hát nói, có rượu ngon, có ca nhạc... Một cuộc sống đúng chất của an nhàn và hạnh phúc mỹ mãn, đây mới chính là cuộc sống tự do mà ông luôn mong muốn hướng tới, đó chính là một cuộc sống an nhàn, cuộc sống chỉ có ông, không có những điều gì làm cho cuộc đời của ông bị vướng bận cả, tất cả nó đều thể hiện một quan niệm sống đầy tự do của ông, với một lối sống tự tại, ông không thích bó buộc, mà ông đang sống một cuộc sống hòa nhập với thiên nhiên, đó là một điều có ý nghĩa vô cùng tốt đẹp, nó đem đến cho ông một cái nhìn đầy thiện cảm với cuộc sống của mình.
Tiếp theo đó là những lời mà ông tự cho rằng đó là cả cuộc đời của mình tuổi trẻ đã làm quan, ông không còn vướng bận điều gì, khi đã làm tròn trách nhiệm của mình với dân với nước, đó là những điều mà ông luôn trăn trở nhưng nay ông đã làm được và ông không còn điều gì phải hổ hẹn nữa:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Trong triều đình ông là duy nhất, và không ai có một thái độ ngất ngưởng như ông, đó là những điều mà ông đã nói đến trong tác phẩm của mình, thái độ đó đã mang lại cho người đọc cái nhìn bao quát nhất, về con người cũng như toàn bộ cuộc sống của ông, ông đã phải sống trọn tình nghĩa và giờ ông đang muốn hưởng một cuộc sống tự do và thoải mái nhất.
Tác phẩm đã thể hiện mạnh mẽ được thái độ cũng như phong cách của ông ông là người ngất ngưỡng và có một phong cách vô cùng riêng biệt.
3. Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu số 3:
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) quê ở Hà Tĩnh, một danh nhân văn hoá văn võ toàn tài, là nhà thơ lỗi lạc của nước ta trong thế kỉ XIX.
Ông còn để lại trên 60 bài hát nói, khoảng 50 bài thơ Nôm. Bài "Hàn nho phong vị phú bài thơ "Đi thi tự vịnh", bài hát nói "Bài ca ngất ngưởng"... là những áng văn thơ tuyệt bút của ông để lại cho đời.
"Bài ca ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ viết trong thời gian 10 năm cuối đời (1848 - 1859) khi ông về trí sĩ ở cố hương. Bài thơ thể hiện một phong cách sống đẹp của ông thi nhân tài tử.
Ngất ngưởng: Không vững ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Ở bài thơ này, nên hiểu là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người.
Khổ đầu, câu 1, 2 đối lập giữa phận sự mang tầm vóc vũ trụ lớn lao với cảnh ngộ đã vào lồng rất chật hẹp tù túng. Thế mà ông Hi Văn đây - tự xưng rất đỗi kiêu hãnh tự hào - vẫn thi thố được tài năng, học giỏi, thi Hương đỗ giải nguyên (thủ khoa) làm quan võ là Tham tán, làm quan văn là Tổng đốc Đông. Là một con người có tài thao lược nên ta (ông Hi Văn) đã nên tay ngất ngưởng, một con người khác đời, khác thiên hạ, và bất chấp mọi người. Câu 3, 4 với cách ngắt nhịp (3-3-4-3-3-2) đã tạo nên một giọng điệu hào hùng:
"Khi Thủ khoa! khi Tham tán khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược! đã nên tay! ngất ngưởng".
Khổ giữa: Tác giả khẳng định mình là một con người có tài kinh bang tế thế, lúc loạn thì giúp nước "bình Tây cờ đại tướng", lúc bình thì giúp vua làm "Phủ doãn Thừa Thiên". Đó là việc đã qua, còn nay đã về trí sĩ, nên ta sống ngất ngưởng bất chấp mọi người:
"Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng".
Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, văn mẫu tuyển chọn
Nay đã trả áo mũ cho triều đình, ta về quê không cưỡi ngựa mà là cưỡi bò vàng; con bò vàng của ta cũng đeo đạc ngựa, đó là một sự ngất ngưởng, rất khác người!
Khổ dôi (hai khổ 3, 4) nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa là một danh tướng (tay kiếm cung) thế mà nay rất từ bi hiền lành, bình dị. Đi vãn cảnh chùa chiền, đi thăm cảnh đẹp (Rú Nài): "Kìa núi nọ phau phau mây trắng", ông đã mang theo "một đôi dì" (một hai nàng hầu). Và do đó "Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng". Bụt cười hay thiên hạ cười, hay ông Hi Văn tự cười mình? Chuyện "được, mất" là lẽ đời như tích "thất mã tái ông" mà thôi, chẳng bận tâm làm gì! Chuyện "khen, chê" của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai như ngọn gió đông (xuân) thổi phơi phới qua: "khen chê phơi phới ngọn đông phong".
Không quan tâm đến chuyện được mất, bỏ ngoài tai mọi lời khen, chê thị phi, ông đã sống những tháng ngày thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà vẫn trong sạch, thanh cao. Cách ngắt nhịp 2/2, nghệ thuật hoà thanh (bằng trắc) lối nhấn, lỗi diễn tả trùng điệp đã tạo nên câu thơ giàu tính nhạc, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, chẳng vướng chút bụi trần:
"Khi ca ! khi tửu ! khi cấc ! khi tùng,
Không Phật ! không Tiên !không vướng tục"
Khổ xếp, Nguyên Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thẩn thuỷ chung trong đạo "vua tôi" chẳng kém gì những Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật - những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Rồi ông đĩnh đạc tự xếp vị thế của mình trong lịch sử:
"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phủ,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!".
Hai so sánh xa gần, ngoại, nội (Bắc sử và trong triều Nguyễn), tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng "ông" vang lên đĩnh đạc hào hùng.
Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, phải có thực tài, phải có thực danh, phải "vẹn đạo vua tôi" thì mới trở thành "tay ngất ngưởng", "ông ngất ngưởng" được. Và cách sống ngất ngưởng của ông thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, "không vướng tục" cũng không thoát li.
4. Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu số 4:
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, xuất thân trong một gia đình nền nếp gia phong. Mặc dù có tài nhưng Nguyễn Công Trứ theo đuổi nghiệp khoa cử đến năm 42 tuổi mới đỗ đạt. Sau đó ông làm quan cho nhà Nguyễn, nhưng tính tình phóng khoáng, thích tự do nên cuộc đời quan trường khá lận đận. Nguyễn Công Trứ là nhà nho yêu nước thương dân. Ông để lại khoảng 50 bài thơ, hơn 60 bài ca trù và một bài phú nổi tiếng Hàn nho phong vị phú. Các sáng tác của ông chủ yếu viết bằng chữ Nôm.
Bài ca ngất ngưởng thuộc thể hát nói, được sáng tác sau 1848, khi ông đã cáo quan về hưu và sống cuộc đời tự do nhàn tản. Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường. Bài thơ là sự ý thức rất rõ tài năng và nhân cách sống của một nhà nho có tài, có nhân cách.
Ngất ngưởng là một từ láy tượng hình vốn được dùng chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, bất ổn định. Ở bài thơ này, từ ngất ngưởng được dùng với nghĩa chỉ sự khác thường, vượt lên thói thường, coi thường dư luận. Ngoài nhan đề, từ ngất ngưởng được nhắc đi nhắc lại 4 lần ở cuối các khổ thơ trở thành một biểu tượng cho một phong cách sống, thái độ sống vượt thế tục, một lối chơi ngông thách thức xung quanh trên cơ sở nhận thức rõ tài năng và nhân cách cá nhân.
Bài tham khảo Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Sau khi cởi mũ, cáo quan ra khỏi cuộc sống bó buộc chốn quan trường bon chen, Nguyễn Công Trứ có những hành vi kì quặc, lập dị đến ngất ngưởng. Người ta cưỡi ngựa đi giao du thiên hạ thì ông cưỡi bò, lại còn đeo cho một cái đạc ngựa khiến cả chủ lẫn tớ đều ngất ngưởng. Đi thăm thú cảnh chùa mà vẫn đeo kiếm cung bên người và mang theo "một đôi dì". Rõ ràng trong bộ dạng từ bi, Nguyễn Công Trứ vẫn vương đầy nợ trần, vẫn đèo bòng đằng sau mấy bóng giai nhân. Cốt cách của một khách tài tử, văn nhân chính là ở đó... Đó là lối sống phá cách của một con người thích làm những chuyện trái khoáy ngược đời để ngạo đời, thể hiện thái độ và khát vọng sống tự do tự tại.
Không bận tâm đến những lời khen chê, những chuyện được mất. Đó là một quan niệm sống, triết lí sống phóng khoáng tự do, thoát khỏi vòng danh lợi tầm thường. Coi sự được mất là lẽ thường tình, ông đã ra khỏi vòng danh lợi để sống thảnh thơi, tự do, tự tại để hưởng mọi lạc thú, cầm, kì, thi, tửu, giai nhân giữa cuộc đời trần thế một cách thoả thích.
Nhà thơ đã vận dụng nghệ thuật tương phản, đặt những cái đối lập nhau để thể hiện thái độ ngất ngưởng của mình.
Nhân vật trữ tình xuất hiện trong tác phẩm là một con người có cá tính ngông, một con người đầy tự tin, yêu thích cuộc sống tự do tự tại, coi thường danh lợi. Con người ấy tự tin vào tài năng và tin tưởng vào quan điểm sống của mình nên đã rất bản lĩnh vượt lên trên thói thường cuộc đời để sống và làm điều mình thích. Nhưng dù ngất ngưởng, ngông ngạo đến đâu, ông vẫn ý thức rất rõ trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Vì thế, sau những phút giây cao hứng, thả mình phóng túng cùng trời đất tự do, ông vẫn không quên tự nhắc : "Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung". Tư tưởng ấy không hề mâu thuẫn với cái ngông ngạo, ngất ngưởng của ông. Trên thực tế, Nguyễn Công Trứ là một nhà nho có trách nhiệm với đất nước. Tuy cuộc sống quan trường gặp nhiều lận đận nhưng ông vẫn luôn một lòng trung thành với triều đình. Dù ham cuộc sống tự do phóng túng nhưng ông vẫn nhiệt tình thực hiện trách nhiệm quân thần.
Cá tính sáng tạo của Nguyễn Công Trứ được thể hiện ở chỗ nhà thơ sử dụng khá nhiều khẩu ngữ trong bài thơ. Điều này tạo nên tính chất sống động, gần gũi, hóm hỉnh cho thể hát nói. Các từ ngữ mang tính chất khẩu ngữ: ông, tay, vào lồng, một đôi dì, nực cười, phường, kìa núi nọ phau phau mây trắng, nên dạng, chẳng... cũng... cũng góp phần khắc hoạ rõ nét tâm hòn tự do, khoáng đạt và thái độ tự tin của tác giả.
5. Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu số 5:
Bài ca ngất ngưởng được Nguyễn Công Trứ viết vào năm 1848, năm ông cáo quan vể hưu sống ở quê nhà với cuộc sống phóng khoáng, tự do, nhàn tản.
Bài ca ngất ngưởng được viết theo thể hát nói.Hát nói là một trong rất nhiều thể điệu của ca trù (ca trù do nữ hát gọi là hát ả đào). Ca trù có nguồn gốc từ rất lâu đời nhưng hát nói thì mới hình thành sau này (cuối thế kỉ XVIII). Hát nói được các nhà thơ sử dụng như một thê thơ.
Mở đầu bài thơ là câu chữ Hán thể hiện lí tưởng cua nhà nho: trong vũ trụ việc gì cũng là phận sự của kẻ sĩ. Do đó, ông Hi Văn coi những việc gánh vác trong vũ trụ là bổn phận của mình. Tác giả tự xưng là ông và bước vào chốn quan trường, ông gọi đó là vào lồng, xem đó như là một sự trói buộc, mất tự do. Điều đó thể hiện tính cách độc đáo của ông bởi sự suy nghĩ đó không giống ai trong xã hội khi mà con người luôn khao khát được đi trên con đường công danh. Tính cách đó góp phần tạo nên sự ngất ngưởng cho Nguyễn Công Trứ.
Nguyễn Công Trứ đã từng đỗ thủ khoa (Giải nguyên), làm Tham tán quân vụ, Tổng đốc An Hải, Đại tướng bình Tây, Phủ doãn Thừa Thiên. Ông không giữ một chức vụ nào lâu. Có khi ông đang ở một vị trí rất cao thì lại bị giáng chức. Sự thăng trầm trong cuộc đời của Nguyễn Công Trứ đã góp phần tạo nên một tay ngất ngưởng. Người ta thường nói tay cung kiếm, tay ăn nói, tay cự phách, giờ đây, Nguyễn Công Trứ bổ sung thêm tay ngất ngưởng trên hoạn lộ.Lối sống của ông cũng thể hiện một sự ngất ngưởng: Năm cởi mũ áo về hưu, ông lại đeo đạc ngựa cho bò vàng, thêm một việc làm ngất ngưởng, bởi trái khoáy với thói thường. Nguyễn Công Trứ từng là vị tướng mà nay lại đi chùa, mang theo cả cô đầu, vừa trái khoáy lại vừa chướng, đến bụt cũng phải cười khì.
Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Và trong quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện một sự cứng cỏi, một bản lĩnh hơn người: được mất vẫn vui như Tái ông mất ngựa, dù được lời khen hay tiếng chê vẫn coi như gió thổi ngoài tai. Cứ hành lạc cho thỏa chí riêng mình.
Ông không hề giống bất cứ ai: không Phật, không Tiên, không vướng tục. Tuy vậy, ông vẫn làm tròn đạo nghĩa vua tôi, làm tròn trách nhiệm của một đấng nam nhi đối với non sông, đối với nhân dân. Điều này dễ mấy ai trong xã hội có thể thu xếp vẹn toàn.Do đó, niềm tự hào của Nguyễn Công Trứ là một niềm tự hào chính đáng.
Quan niệm sống ngất ngiỉởng của Nguyễn Công Trứ khác hẳn với những quan niệm thông thường thời dó. Có thể xem là một triết lí mới của thời đại lúc bấy giờ. Những nét cơ bản về tính cách của một con người tài tử có phầm chất và bản lĩnh nơi Nguyễn Công Trứ được thể hiện đậm nét bởi việc không chịu đi theo con đường sáo mòn của tư tưởng phong kiến
Bài thơ được sáng tác theo thể ca trù, có những câu thơ 8 tiếng, 10 tiếng và lối ngắt nhịp khá phong phú, tự do, gợi lên cái phóng khoáng của một Trang Chu gõ chậu hát chơi coi đời vô vị, được mất là chuyện chẳng cần băn khoăn.Chính những lời lẽ đùa cợt suồng sã rất phù hợp với cái tôi phóng túng và đầy ngất ngưởng của nhà thơ rất giàu cá tính này.
-------------------HẾT-------------------
Trên đây là phần Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng bài tiếp theo, các em chuẩn bị trả lời câu hỏi SGK, Soạn bài Bài ca ngất ngưởng và cùng với phần Phân tích Bài ca ngất ngưởng để học tốt môn Ngữ Văn hơn.
https://thuthuat.taimienphi.vn/cam-nhan-bai-ca-ngat-nguong-cua-nguyen-cong-tru-39379n.aspx