Hạnh phúc của một tang gia là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất trong tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Trong bài học hôm nay, các em hãy cùng soạn bài Hạnh phúc của một tang gia để thấy được niềm hạnh phúc lạ lùng của một tang gia, từ đó cảm nhận được sự suy đồi về đạo đức của con người và hiện thực xã hội đen tối những năm đầu TK XX.
1. SOẠN BÀI HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA (Trích Số đỏ), ngắn 1
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Tác giả:
1. Cuộc đời
- Vũ Trọng Phụng (1912-1939) xuất thân trong một gia đình nghèo, quê gốc làng Hảo (Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Thân sinh của Vũ Trọng Phụng chuyển lên Hà Nội khoảng đầu thế kỉ XX, làm thợ điện và sớm qua đời vì bệnh lao khi nhà văn mới 7 tháng tuổi.
- Vào đời đúng vào thời điểm xã hội Việt Nam đang bị cuốn vào cơn khủng hoảng kinh tế, Vũ Trọng Phụng liên tục bị mất việc, ông đành phải chọn nghề viết báo, viết văn chuyên nghiệp làm kế mưu sinh.
- Cuộc sống khốn quẫn, công việc cực nhọc, Vũ Trọng Phụng mắc bệnh lao mà không có điều kiện chạy chữa. Ông qua đời năm 1939 tại Hà Nội khi còn một tuần nữa mới đầy 27 tuổi.
2. Sự nghiệp
- Phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936), Lục xì (1937)....
- Tiểu thuyết: Dứt tình (1934), Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, Làm đĩ (1936), Lấy nhau vì tình (1937), Trúng số độc đắc (1938)...
- Và hàng chục truyện ngắn nổi tiếng khác. Ngoài ra, Vũ Trọng Phụng còn dịch một số vở kịch và tiểu luận khá dài cùng hàng trăm bài phê bình, tiểu luận, bài báo và xã luận.
3. Phong cách
- Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng được coi là những bức chân dung biếm họa về xã hội hiện thực đương thời. Ông là nhà văn nhiều chất phóng sự nhất, cũng là nhà báo nhiều chất văn chương nhất.
- Vũ Trọng Phụng là nhà văn sớm thể hiện nét sắc sảo của một cây bút hiện đại nhưng đồng thời về sự nghiệp sáng tác cũng như thế giới quan cũng bộc lộ những nét phức tạp, đôi khi mâu thuẫn, gây ngộ nhận và tranh cãi qua một thời gian khá dài trong nhiều thế hệ người đọc.
- Do chuyên chú xây dựng bức tranh xã hội nên ông rất sở trường xây dựng kiểu nhân vật đám đông.
- Ông sử dụng tài tình hai thủ pháp đối lập và cường điệu để làm nổi bật bản chất hiện thực.
- Vũ Trọng Phụng dùng tiếng cười để lật tẩy, tạo điều kiện cho công chúng nhận ra bản chất Âu hoá rởm, thể thao rởm, bình dân rởm, nữ quyền rởm mà thực dân Pháp và chế độ phong kiến lúc bấy giờ muốn tạo ra.
II. VĂN BẢN “HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA”
1. Tiểu thuyết Số đỏ
- Số đỏ được xem là kiệt tác của Vũ Trọng Phụng và cũng là kiệt tác của văn xuôi Việt Nam trước 1945, xuất bản dưới dạng đăng nhiều kì trên Hà Nội báo, bắt đầu từ số 40, từ ngày 7 tháng 10/1936, in thành sách vào năm 1938.
- Số đỏ ra đời như một sự thể hiện thái độ của Vũ Trọng Phụng đối với các phong trào rầm rộ nhưng nông nổi và hời hợt trong xã hội đô thị Việt Nam những năm 30 của thế kỉ trước. Đó là những làn sóng mới với những cái tên rất kêu như: Âu hoá, thể thao, bình dân, nữ quyền nhưng thực chất chỉ là những trò lừa mị, quảng cáo để che đậy lối sống chạy theo vật chất, dục vọng tầm thường và nhiều thú vui phù phiếm của tầng lớp thượng lưu, giàu có mới nổi.
2. Xuất xứ
- Hạnh phúc của một tang gia chính là chương XV trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng xuất bản lần đầu năm 1936. Tên nguyên của chương này trong tiểu thuyết là Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh nữa cũng nói vào – Một đám ma gương mẫu. Nhan đề của đoạn trích là do người biên soạn sách giáo khoa lược bớt.
3. Chủ đích của tác giả
– Suốt mười bốn chương đầu, các nhân vật lần lượt xuất hiện với tính cách hoàn chỉnh. Ở chương XV, mượn bối cảnh đám tang, tác giả để cho xuất hiện kiểu “nhân vật đám đông”. Mỗi nhân vật dù chỉ được miêu tả chấm phá vài nét nhưng bản chất lại bộc lộ khá nổi bật.
- Chủ trương của tác giả trong chương XV là lật tẩy và vạch trần bản chất nhố nhăng, giả dối, lố bịch, vô đạo đức của bọn người mang danh là thượng lưu, quí phái, văn minh. Thực chất chúng chỉ là những quái thai, cặn bã của xã hội thực dân tự sản thành thị nước ta trước Cách mạng.
4. Ý nghĩa của nhan đề đoạn trích
- Lập tức mang tới cho độc giả cảm giác bị hài bởi sự đối lập (tang gia – hạnh phúc).
- Nhan đề cũng phần nào giúp người đọc hình dung được thái độ của con người và bản chất của xã hội đương thời.
5. Đặc trưng trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong đoạn trích
- Nói đến nghệ thuật trào phúng là nói đến các hình thức và thủ pháp gây cười. Những cách thức thông thường mà một cây bút trào phúng sử dụng là tạo sự đối lập, tạo sự phi lí, thúc đẩy kịch tính, kết thúc bất ngờ...
- Ngoài việc sử dụng thành công các hình thức và thủ pháp đó, Vũ Trọng Phụng vận dụng rất thành công bút pháp cường điệu cao độ, phóng đại tột cùng; đặc biệt là thủ pháp miêu tả sự thống nhất mà đối lập một cách tinh tế giữa nội tâm và ngoại hiện nhằm phơi bày và lật tẩy bản chất của đối tượng trào phúng.
+ Cường điệu: nói quá sự thật để nhấn mạnh chi tiết gây cười.
+ Đối lập: phát triển những chi tiết đối lập cùng tồn tại trong một sự vật, con người.
+ Mỉa mai: chế giễu, đay nghiến những điều xấu xa bất hợp lí trong cuộc sống.
6. Những chi tiết mang tính chất cường điệu
- Câu “Biết rồi khổ lắm nói mãi” được cụ cố Hồng nói 1872 lần.
- Một buổi sáng cụ cố Hồng hút hết 60 điếu thuốc phiện...
7. Những chi tiết thể hiện sự đối lập
- Cụ cố tổ chết là mọi người sung sướng (tang gia – hạnh phúc).
- Quyến rũ một em gái, tố cáo tội hoang dâm của một em gái khác và gây ra cái chết cho ông cụ được coi là “hai cái tội nhỏ, một cái ơn to”.
- Sư Tăng Phú “dốc lòng mộ đạo” nhưng coi việc đi hát là “đi dưỡng tinh thần”.
- Văn Minh là nhà cách mạng trong phong trào Âu hóa, thể dục thể thao nhưng “không thể thao, thể dục cũng không”...
8. Những chi tiết thể hiện sự mỉa mai
- Mời nhiều thầy thuốc để thực hành lí thuyết “nhiều thầy thối ma”.
- Những mẫu trang phục trong tiệm Âu hóa “thì có thể ban cho những ai có tang thương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời”...
9. Cái chết của cụ cố tổ được mọi người mong đợi.
- Cái chết của cụ cố tổ đem lại hạnh phúc cho rất nhiều người, kể cả những người trong và ngoài gia đình đó.
- Cụ cố Hồng sẽ hãnh diện vì đám ma to.
- Văn Minh sẽ được thừa hưởng tài sản.
- Cậu Tú Tân sẽ được dịp thể hiện tài năng nhiếp ảnh.
- Bà Văn Minh, cô Tuyết,... sẽ được diện những bộ xô gai tân thời, bắt mắt.
- Những ông bạn của cụ cố Hồng sẽ được dịp khoe hàng đống huy chương.
- Cảnh sát Min Đơ, Min Toa được trả tiền giữ trật tự đám tang.
10. Bản chất của xã hội thượng lưu đương thời
- Lố lăng, đồi bại, học đòi một cách xuẩn ngốc.
- Mỗi con người trong xã hội đó là một tên hề.
- Đạo lí của những kẻ làm con cháu đã hoàn toàn biến chất: chỉ mong cho người đời nhớ đến một “đám ma danh giá” với những đồ kiểu xô gai tân thời, hở hang; sự giàu có, hoành tráng trong việc chụp ảnh, đồ cúng bái... Không một ai thực sự tiếc thương người chết.
- Nghĩa cử với người chết chỉ là cái cớ để những người đi dự thể hiện sự “hơn đời” của mình: các cụ ông ngực đầy huân chương, thanh niên chim chuột nhau, bạn bè khoe quần áo nhà cửa mới sắm...
- Phong tục tập quán bị huỷ hoại: đám ma là sự kết hợp giữa Tây - Ta - Tàu hổ lốn. Có cả kèn đồng của Tây lẫn nhạc cụ của Tàu, có cả Vòng hoa lẫn “lợn quay đi lọng”...
11. Thế giới nhân vật đặc thù
a. Nhân vật Xuân Tóc Đỏ
- Đầu tiên là một kẻ lang thang đầu đường xó chợ được bà phó Đoàn cứu vớt đưa về làm việc ở tiệm may Âu hóa của Văn Minh.
- Nhờ láu cá mà từ một kẻ vô học, vô lại, Xuân trở thành “nhà cải cách”, “anh hùng cứu quốc”.
- Hành vi cử chỉ của Xuân thể hiện hắn là một kẻ lố lăng, bịp bợm, xấu xa đê tiện. Hắn là tổng thể những phẩm chất xấu xa đồi bại của xã hội đương thời.
b. Nhân vật bà phó Đoan
- Một me Tây to béo, dâm đãng nhưng luôn ra vẻ thiếu nữ trinh trắng.
- Thủ tiết với hai đời chồng và được tặng bằng “Tiết hạnh khả phong”.
c. Nhân vật ông Văn Minh
- Một nhà cải cách bịp bợm, chuyên hô hào những điều viển vông mà bản thân không thực hiện được.
- Với thẩm mĩ và văn hóa lố lăng, Văn Minh đã cho thiết kế và lưu hành những bộ trang phục kì quái những tên gọi lạ lùng không kém.
d. Nhân vật ông Typn
- Chính là người thiết kế ra những bộ quần áo lố lăng như dậy thì, ngây thơ, ỡm ờ...
- Cổ xúy mạnh mẽ cho phong trào Âu hóa nhưng lại rất cay cú vì vợ ăn mặc tân thời.
- Kẻ sống không thật với chính bản thân mình.
12. Những đặc sắc nghệ thuật
- Để tạo được sức mạnh đả kích thông qua một thế giới nhân vật hổ lốn kệch cỡm như thế, Vũ Trọng Phụng đã có những dụng công thực sự về mặt nghệ thuật trào phúng.
a. Tạo các chân dung biếm hoạ bằng bút pháp phóng đại, cường điệu
- Biếm hoạ diện mạo, trang phục bằng cường điệu cái lố lăng.
- Biếm hoạ ngôn ngữ và hành vi bằng cường điệu cái lố bịch.
- Đặc tả tâm lí tiểu tư sản nửa mùa bằng cường điệu những cảm xúc và suy nghĩ mang nét quái gở của đối tượng.
b. Sử dụng bút pháp miêu tả tương ứng trong đối lập giữa nội tâm và ngoài hiện để lật tẩy bản chất đối tượng.
- Nhà văn chỉ cho độc giả thấy đằng sau cái dáng điệu ngồi nhắm nghiền mắt lại của cụ cố Hồng mà thoạt nhìn ai cũng tưởng là đã quá đau xót vì mất bố kia thực chất chỉ là do cụ đang mơ màng cái giây phút được thiên hạ trầm trồ khen già, khen đám ma to, khen cái gậy chống tăng gia đẹp như thể một diễn viên đang chờ phút được lên sân khấu diễn kịch trước công chúng.
- Trong cái cách đi đi lại lại, vò đầu, bứt tóc, đăm đăm chiêu chiêu của Văn Minh, con cụ cố Hồng mà ai cũng tưởng ông ta đang căm hờn cái định mệnh khắc nghiệt đã cướp ông nội của anh ta kia kì thực là y đang băn khoăn về vấn đề mời luật sư đến chứng kiến cái chết trên thực tế của cụ tổ để từ đây mà đi, việc chia của không còn là câu chuyện lí thuyết viển vông nữa; là sự quá bối rối về vấn đề không biết xử trí thế nào trước tình thế nan giải giữa hai cái tội nhỏ với một cái công to của Xuân.
- Cứ thế, từ từng nhân vật cho đến cả cái xã hội thượng lưu tư sản nửa mùa ấy bị Vũ Trọng Phụng lật tẩy. Để đằng sau nhà cửa, ngựa xe và các mốt áo quần sang trọng, hợp thời trang tất cả chúng chỉ là lũ ngợm nông cạn, phù phiếm, trần tục, giả dối đang vứt bỏ mọi giá trị truyền thống mà lao vào cái vùng sáng Âu hoá như một lũ thiêu thân.
c. Nghệ thuật pha trộn giọng điệu để tạo giọng điệu mới
- Giọng hài hước bông đùa pha trộn với giọng châm biếm, công kích
- Giọng giễu nhạt pha trộn với giọng giả vờ nghiêm trang
- Giọng tường thuật khách quan pha trộn với bình luận dí dỏm mà cay độc.
d. Nghệ thuật pha trộn từ ngữ để tạo từ ngữ mới
- Tiếng khóc: Hút... hứt..hứt... của Phán mọc sừng trong đám tang cụ tổ rõ ràng là độc nhất vô nhị. Trong muôn vàn cung bậc của nỗi đau thương phát ra bằng âm thanh ta chưa từng nghe cái thanh âm nào lại là như thế. Vũ Trọng Phụng đã tạo ra nó dựa trên cơ sở nào? Bởi trong bụng Phán mọc sừng vui, đang hoan hỉ với tiếng cười Hì...hì... hì... do số tiền vài nghìn đồng được chia nhờ cái chết của cụ tổ nhưng ngoài mặt thì y không thể không làm ra bộ đớn đau, thương tiếc nên nó phải vờ khóc Hu.. hu..hu... Vũ Trọng Phụng đem trộn cả hai thứ ấy vào nhau, thành ra cái tiếng Hứt... hứt...hứt... quái lạ ấy.
- Kĩ thuật pha trộn từ ngữ này của Vũ Trọng Phụng còn được sử dụng và lần nữa trong một số sáng tác. Điển hình là tiếng Nhịa của ông cụ thân sinh Nguyễn Văn Phúc trong Trúng số độc đắc. Tiếng khóc quái lạ ấy của nhân vật nhìn ở góc độ khác còn là một thứ tín hiệu để gọi đối tác nhằm hoàn thành công việc thanh toán tiền công cho Xuân, kẻ đã tình cờ gây ra cái chết của cụ tổ ngay trong đám tang! (Nguyễn Văn Phượng).
B. TỰ LUẬN
1. Phát biểu suy nghĩ của anh (chị) nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
Nét đặc sắc về nghệ thuật của tiểu thuyết Số đỏ và cũng là của đoạn trích là chỗ, Vũ Trọng Phụng đã tạo được một tình huống nghệ thuật độc đáo và đã thể hiện tài năng của một nhà văn hiện thực sắc sảo qua nghệ thuật trào phúng bậc thầy đặc biệt là ở tài nghệ siêu việt trong việc luôn tạo ra sự bùng nổ mâu thuẫn dây chuyền nhằm duy trì tiếng cười thường trực với mọi cung bậc gây nên một trận cười dài càng về sau càng hấp dẫn (trong khi tiếng cười trong dân gian thường bật ra nhanh và kết thúc gấp).
Tình huống nghệ thuật độc đáo
- Đoạn trích cũng đã tạo được một tình huống trào phúng thật độc đáo.
- Đó là cái chết của cụ tổ và thái độ ứng xử của đám con cháu. Cái chết của cụ tổ đã thực sự đem lại niềm vui lớn lao cho cái đại gia đình bất hiếu ấy. Bởi vì, cái chết ấy tựa như một hỉ tín vừa cáo chung một khoảng thời gian dài mong mỏi và chờ đợi vừa mở ra một kỉ nguyên mới – kỉ nguyên thực hành tờ di chúc của người đã khuất, tức là kỉ nguyên chia của và hưởng thụ. Một tình huống nghệ thuật độc đáo, tự nó, mang ý nghĩa của một sự cố đặc biệt, đánh thức những phẩm chất sâu kín của tất cả các nhân vật mà bình thường chúng muốn che giấu. Theo nghĩa đó, cái chết của cụ tổ có giá trị của một sự kiện quan trọng lật tẩy bản chất thực sự của tất cả các thành viên trong gia đình ấy. Nét sắc sảo của ngòi bút Vũ Trọng Phụng là ở chỗ ông miêu tả sự kiện trên tựa như một cú hích làm tất cả quay 180 độ. Ngay sau cái chết của cụ cố tổ, mọi thành viên trong cái đại gia đình thượng lưu, giàu có ấy lập tức vất bỏ các vai diễn về lòng hiếu thảo giả vờ, thái độ tận tuy giả vờ, tâm trạng lo lắng giả vờ để trở về với con người thật của chúng: bận rộn tổ chức đám tang trong niềm háo hức, hoan hỉ với số của nả, tiền bạc mà người chết để lại.
Viết về sự đồi bại của con người thông qua thái độ của nó trước cái chết nhưng sử dụng tình huống đám tang là nét khác người và cũng là sở trường của Vũ Trọng Phụng.
Đây là tình huống điển hình vì thái độ của con người trước cái chết của đồng loại và người thân thường là thước đo chính xác và chân thực phẩm giá con người. Ban-dắc bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực cũng soi tính cách của các nhân vật thượng lưu và bình dân qua cái chết của lão Gô-ri-ô (Trích đoạn: Đám tang lão Gô-ri-ô)
Qua trích đoạn chương XV, tác giả muốn phơi bày bản chất xấu xa của cả hai loại nhân vật: đám người quý phái, thượng lưu và tầng lớp bình dân lưu manh qua đại diện là Xuân Tóc Đỏ.
Chất trào phúng trong nhan đề
- Hạnh phúc của một tang gia là nhan đề đã được lược bớt của chương XV trong tác phẩm. Tên đầy đủ do tác giả tự đặt là: Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh nữa cũng nói vào - Một đám ma gương mẫu.
- Chọn đặt nhan đề Hạnh phúc của một tang gia tác giả đã thu hút ngay từ đầu sự chú ý của người đọc vào một mâu thuẫn mang tính trào phúng. Gia đình có tang mà lại hạnh phúc? Gia đình có người chết mà lại vui vẻ, sung sướng?
Nếu quả thật trong thực tế có chuyện trái khoáy, ngược đời đó thì hạnh phúc ở đây chỉ có thể hiểu là hạnh phúc của một gia đình vô phúc, niềm vui ở đây chỉ có thể hiểu là niềm vui của một lũ con cháu đại bất hiếu mà thôi.
Câu cửa miệng người ta thường nói tang gia bối rối vốn để chỉ tình cảnh bận rộn, lúng túng, lo lắng, rối bời trước mất mát của một gia đình có tang, thì ở đây tác giả cũng đã dựng lên đúng cảnh bối rối thực sự của cái đại gia đình cụ cố Hồng vào lúc cụ tổ qua đời. Tuy nhiên, toàn bộ sự lo lắng, bận rộn ở đây trong thực chất chỉ là lo làm sao để tổ chức cho thật to, thật linh đình một ngày vui, một đám hội cho mọi thành viên trong gia đình và thiên hạ cùng chúng kiến và thưởng thức một đám ma gương mẫu. Còn bối rối? Thì quả là có bối rối thật. Nhưng là cái bối rối lo làm sao giải quyết cho xong một vài việc còn dang dở đối với một vài thành viên trong gia đình để niềm vui và hạnh phúc do cái chết của cụ tổ đưa lại được thực sự mĩ mãn.
=> Như vậy, nhan đề Hạnh phúc của một tang gia vừa gây sự chú ý bởi tính hài hước, mỉa mai về một sự thật có vẻ ngược đời, trái khoáy nhưng đáng buồn thay lại đang xảy ra trong thực tế; vừa cho người đọc thấy mà suy ngẫm về một vấn đề khác lớn hơn và đáng lo ngại hơn: tâm lí thực dụng tư sản, tâm lí bất chấp tất cả để chạy theo vật chất và đồng tiền trong xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ đang chà đạp và làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống từng được coi là thiêng liêng và đáng trân trọng nhất của một xứ sở.
Tài nghệ trào phúng qua xây dựng các chân dung biếm hoạ
- Chân dung biếm hoạ cá nhân
Cái chết của cụ cố tổ, như đã phân tích, rõ ràng là một sự kiện đem lại hạnh phúc cho mọi thành viên trong gia đình của cụ. Điều có vẻ như một nghịch lí này, oái ăm thay lại là một sự thực khá mỉa mai và tàn nhẫn khi ta soi vào tâm trạng và hành vi của từng thành viên trong đại gia đình ấy.
Ông Phán mọc sừng là thành viên được tác giả nhắc đến đầu tiên trong đám người nhận được tin vui ngay sau cái chết của cụ cố tổ. Cũng không phải ngẫu nhiên cụ cố Hồng lại chọn ông con rể quý hoá ấy là người đầu tiên để nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và rể một số tiền là vài ngàn đồng. Vì chính ông (xứng đáng là một đạo diễn tài ba) đã chỉ đạo cho anh chàng diễn viên tài ba là Xuân Tóc Đỏ nói cái câu cần nói cho cái người cần và phải được nghe, là cụ cố tổ. Cái kết quả ngoài cả sự mong đợi của mọi người ấy, xét một cách khách quan thì công lớn thuộc về Xuân nhưng công đầu vẫn phải thuộc về ông vì, thử hỏi, mọi người sẽ còn phải đợi cái chết của ông cụ già đáng chết đến bao giờ nữa, nếu không có ông khôn ngoan đã trù tính trước và cài đặt cái câu: Thưa ngài, Ngài là một người chồng mọc sừng! vào miệng Xuân để Xuân, trong một cơn tức giận chính đáng, nã luôn cái câu nói ấy vào mặt cụ cố tổ?
Cho nên, ông xứng đáng là người đầu tiên được hưởng thành quả từ cái chết của cụ tổ và phải là người đầu tiên được nghe cái lời hứa quý hoá của nhạc phụ về món tiền đáng kể kia. Niềm vui của ông đơn giản và khá phàm tục những trải qua các cung bậc đúng với tâm lí của hạng con buôn gặp món bờ: từ ngạc nhiên vì không ngờ giá trị của đội sừng hươu vô hình trên đầu mà lại to đến thế đến tâm trạng hào hứng mơ tưởng một cuộc hợp tác doanh thương hiển hách với Xuân và dâng lên tới đỉnh với niềm phấn khích muốn gặp ngay Xuân để trả nốt năm đồng.
Niềm vui của cụ cố Hồng thuộc kiểu hiếu danh mù quáng đến mức ngu xuấn và lố bịch. Đối với nhân vật kì quặc này, ông cụ thân sinh qua đời sẽ là một cơ hội hiếm có để cụ Hồng lên chức cụ cố trước mắt bàn dân thiên hạ mặc dù về tuổi trời, cụ mới ngoài năm mươi! Thế nhưng chỉ cần mơ tưởng đến thời khắc vinh danh ấy cụ sung sướng mê tơi đến mức nhắm nghiền mắt lại rồi mơ màng rồi tưởng tượng ra cái cảnh đau đớn, khổ não của mình cùng lời trầm trồ khen ngợi của đám đông đứng xem đám tang.
- Niềm hạnh phúc của Văn Minh, con trai cụ cố Hồng có thể tạm gọi tên là niềm hạnh phúc điển hình của đám con cháu đại bất hiếu nhuốm màu lạnh lùng kiểu Tây phương hạ lưu. Đối với Văn Minh, cái chết của cụ tổ là một nốt son trong lịch sử gia đình. Vì nó chấm dứt cái thời kì chờ đợi sốt ruột và mỏi mòn thực đáng ghét để bước sang kỉ nguyên chia của và hưởng lợi đầy hân hoan! Tâm trạng rộn ràng khiến Văn Minh bấn lên với bao nhiêu sự chen lấn giữa ngôn ngữ pháp đình với ngôn ngữ biểu cảm, tình thái nào luật sư, lí thuyết, thực hành, tố cáo, phạm tội, băn khoăn, phiền, phân vân...
Niềm vui của sự cụ Tăng Phú thì lộ hẳn ra ngoài qua vẻ vênh váo ngồi trên một chiếc xe tham gia vào đội quân đưa tang cụ tổ mà như thể đang cùng một đội quân ca khúc khải hoàn và chắc mẩm rằng trong số thiên hạ đúng xem ở các phố thế nào cũng có người nhận ra rằng sự cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo, và như thế thì là một cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ mà Tăng Phú giữ vai trò cố vấn.
Các thành viên còn lại chỉ thực sự hạnh phúc khi cụ Hồng ra lệnh phát phục. Bởi đám tang cụ tổ là một sự kiện để mỗi người nhân đó có dịp trình diễn cái vai trò của cá nhân mình trước xã hội: bà Văn Minh sẽ trình diễn đồ xô gai thuộc dạng mốt tân thời, Tuyết sẽ trình diễn bộ y phục cũng thuộc dạng mốt tân thời có tên là Ngây thơ để tiện thể cải chính với thiên hạ rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh, cậu Tú Tân sẽ trình diễn tài nghệ chụp ảnh trong đám tang, còn ông TYPN thì sẽ lắng nghe báo giới bình phẩm ra sao về những thiết kế trang phục của hiệu may Âu hoá.
- Chân dung biếm hoạ tập thể
Niềm hạnh phúc do cái chết của cụ tổ đem lại không chỉ tràn ngập tâm hồn các thành viên trong gia đình cụ cố Hồng mà còn ban phát cho cả nhiều hạng người ngoài xã hội.
Đó là niềm vui bỗng lại có công ăn việc làm, tức là được thuê giữ trật tự cho đám ma, đồng nghĩa với, cái mà ngôn ngữ thông tục ngày nay gọi là có lộc của hai cảnh binh thuộc bộ thứ 18 Min Đơ và Min Toa; là niềm vui của những ông bạn thân bạn cụ cố Hồng, nhân dịp đến chia buồn với tang gia mà tiện thể khoe công trạng một đời công chức của họ với đủ loại huân chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Miên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh, vân vân. Tuy nhiên, cái đám đầy đủ râu ria rất đáng kính ấy còn mãn nguyện hơn nữa khi đến chia buồn bỗng lại được hưởng chút niềm vui khá trần tục là thưởng thức cái làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết.
Với đám giai thanh, gái lịch Hà thành, những kẻ không dính líu chút nào về quan hệ bà con, họ hàng với người đã khuất thì niềm vui của họ là được đến đám tang để có cơ hội khoe về chuyện vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Đây cũng là dịp để họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau nữa, tất nhiên.
Nhưng người hạnh phúc nhất có lẽ là Xuân dù anh ta có vẻ như không ý thức được điều đó. Cái chết của cụ tổ đem lại cho Xuân hai món hời gồm cả danh dự lẫn tiền bạc. Về danh dự, cái chết của cụ tổ đã khiến cho danh dự của Xuân to thêm. Về tiền bạc, Phán mọc sừng đã lập tức thanh toán hợp đồng giết người ngay trong đám tang!
Theo như sở nguyện của hai vợ chồng cụ cố Hồng thì đám ma cụ tổ phải là một đám ma mẫu mực, to tát chưa từng có và cái đại gia đình ấy đã làm được điều đó.
Tuy nhiên, đây là một đám tang mẫu mực cho sự biến tướng quái gở trong lối sống của lớp người giàu có mới nổi chỉ còn biết nghe theo tiếng gọi của những thú vui phù phiếm, tầm thường, vô nghĩa lí với bất cứ sự kiện gì cũng có thể tạo thành một cuộc hội hè cho dù có là một đám tang đi nữa.
Điệp khúc “đám cử đi” đã biểu lộ cho ai cũng có thể thấy đám tang đích thực là một đám rước, càng đi càng đông, đưa đi đến đâu làm huyên náo đến đây.
Về tổ chức, đám tang này theo phong cách hổ lốn!
Nhạc điều thì có đủ kèn Ta, kèn Tầu, kèn Tây thay nhau mà rộn lên như thể đua nhau mà tạo tiếng ồn.
Phúng viếng lại càng đa tạp, trong cả ra đường hàng trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa...
Người đưa tiễn kẻ quá cố đông đúc, sang trọng nhưng chen lẫn giữa xe và người. Đã thế lại có đến một nửa là phụ nữ, phần lớn là tân thời. Chính vì thế mà càng ồn ào, huyên náo. Sự huyên náo, hỗn tạp do sự đua chen giữa các kiểu lời: từ thì thầm trò chuyện về vợ con, nhà cửa để khoe một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may đến việc chim nhau, cười tình với nhau, hẹn hò nhau bên cạnh những lời bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau lại còn những lời thì thào cùng nhiều câu vui vẻ, ý nhị khác nữa. Tất cả được che giấu qua quýt bằng những vẻ mặt làm ra bộ nghiêm chỉnh hoặc buồn rầu nữa do đó mà giả dối, hài hước, đồi bại và lố lăng phô bày trọn vẹn sự suy đồi phong hoá.
Từ niềm hạnh phúc của các nhân vật do cái chết của cụ tổ đem lại và cảnh tượng của cái đám ma gương mẫu có thể thấy, qua sự lật tẩy sắc sảo của nhà văn Vũ Trọng Phụng, xã hội tư sản đương thời thực chất chỉ là sản phẩm quái gở của cơn sốt Âu hoá nông nổi và lố lăng phô bày trọn vẹn bản chất giả dối, suy đồi của nó. Thái độ của nhà văn về cái xã hội tư sản nửa mùa này là khinh bị, nhạo báng một cách cay độc trong một tiếng cười trào phúng mang sức mạnh triệt hạ, huỷ diệt. (Nguyễn Văn Phượng)
Xem tiếp các bài soạn để học tốt môn Ngữ Văn lớp 11
- Soạn bài Hai đứa trẻ
- Soạn bài Ngữ Cảnh
2. SOẠN BÀI HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA (Trích Số đỏ), ngắn 2
Câu 1: Ý nghĩa của cách đặt nhan đề và tình huống trào phúng của đoạn trích.
- Ngay từ nhan đề Hạnh phúc của một tang gia đã chứa đựng trong đó mâu thuẫn của cả tác phẩm. Tang gia là gia đình có tang, có người thân vừa mới qua đời. Nhưng thật nghịch lí, trái lẽ thường, ở đây là tang gia nhưng ai cũng sung sướng, hạnh phúc.
- Trong đoạn trích tác giả cũng dựng nên bối cảnh mỗi người đều có những niềm hạnh phúc riêng thế nên đám con cháu “vui vẻ tưng bừng” chuẩn bị cho đám tang thành thử cả nhà tấp nập vui như tết.
⟹ Nhan đề gợi sự mỉa mai chế diễu, là một tiếng cười đầy chua chát giúp người đọc nhận ra một gia đình bất hiếu.
Câu 2:
* Niềm “hạnh phúc” của mọi thành viên trong đại gia đình trước cái chết của cụ cố tổ.
Niềm hạnh phúc chung: tờ di chúc sắp đi vào thực thi, các thành viên sẽ được hưởng lợi ít nhiều từ cái chết của cha, của ông mình.
Niềm hạnh phúc riêng:
+ Cụ cố Hồng: mơ màng đến lúc được mặc áo xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho vừa khạc, vừa khóc mếu để thiên hạ phải khen: Con trai lớn đã già thế kia à ? → điển hình cho lại người ngu đốt, háo danh
+ Ông Phán, cháu rể của cụ cố Tổ, vui vì không ngờ giá trị bị vợ cắm sừng lại có thể là nguyên nhân cái chết của cụ cố Tổ.
+ Ông Văn Minh vui sướng vì sẽ được hưởng lợi từ di chúc. Bà Văn Minh mừng rỡ vì sẽ lăng xê được mẫu quần áo mới trong đám tang.
+ Cô Tuyết: được dịp mặc bộ y phục ngây thơ để cho thiên hạ thấy rằng mình chưa mất hết cả chữ “trinh”
+ Cậu Tú Tân: sướng điên người vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không dùng đến. Nhờ có cái chết của ông nội Cậu Tú Tân mới có được cơ hội hiếm có để giải trí, phô diễn tài nghệ chụp ảnh của mình.
⇒ Tất cả đám con cháu trong gia đình đều hạnh phúc, sung sướng vì được thêm danh, thêm tiền → đó là một gia đình đại bất hiếu.
* Hình ảnh những người đến đưa tang đám ma cụ cố tổ:
Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, buồn rầu nhưng lại đang bàn bạc đủ mọi chuyện trên trời: chuyện cưới vợ, nhà cửa….
Những ông bạn thân của cụ cố Hồng đi đám tang nhưng “ngực đầy huân chương” như đi lễ hội.
Đi đưa đám là để bình phẩm, chê bai nhau,…
⟶ Hình ảnh thu nhỏ của một xã hội thượng lưu đồi bại, lố lăng, vô văn hóa, vô đạo đức.
Câu 3: Cảnh “đám ma gương mẫu”
- Một đám ma to tát:
+ Theo lối Ta, Tây, Tàu,..
+ Vòng hoa, câu đối, người đi đưa (ba trăm, vài ba trăm…số lượng nhiều, đông)
- Một đám ma danh giá
+ Có mặt của nhiều vị tai to mặt lớn
+ Rất đông nam thanh nữ tú
+ Có nhà sư, báo đài truyền thông…
- Một đám ma hợp thời trang với những đồ tang mốt nhất
- Một đám ma rộn rã tưng bừng
⟶ Đám tang diễn ra như một tấm hài kịch. Đó là dịp để người ta “khoe danh, khoe của, khoe áo, khoe tình”.
- Một đám tang có tất cả để trở thành danh giá nhất, chỉ thiếu một điều đó là nỗi đau buồn, lòng thương xót.
⟶ Bóc trần sự đồi bại, lố lăng của xã hội thượng lưu u hóa nửa vời.
Câu 4: Thái độ của nhà văn về xã hội.
Đả kích, vạch trần một xã hội suy tàn thối nát về nhân cách đạo đức con người thời buổi u hóa. Nơi mà con người bị giá trị của đồng tiền làm mờ mắt. Những danh xưng, vọng tưởng lố lăng trở thành ước muốn và người ta làm mọi cách để đạt được nó.
Câu 5: Nghệ thuật trào phúng đặc sắc được thể hiện trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
- Khai thác triệt để mâu thuẫn trào phúng (tang gia mà ai cũng hạnh phúc, đám tang mà như đám hội,…)
- Các thủ pháp cường điệu, nói ngược, mỉa mai,…được dùng linh hoạt
- Tạo được những chi tiết trào phúng đặc sắc, có giá trị (từ tên gọi, hành động, suy nghĩ)
- Những câu văn châm biếm, hài hước.
-------------------HẾT---------------------
Ngoài nội dung ở trên, các em có thể tìm hiểu thêm phần Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù nhằm chuẩn bị cho bài học này.
Ngoài ra, Phân tích cảnh phố huyện ngày tàn trong phần đầu truyện ngắn Hai đứa trẻ là một bài học quan trọng trong chương trình Ngữ Văn 8 mà các em cần phải đặc biệt lưu tâm.
https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-bai-hanh-phuc-cua-mot-tang-gia-38073n.aspx