Soạn bài Tự do (P.Ê-Luy-A)

Tự do là đề tài muôn thuở trong thi ca thế giới, thật vậy, các em cùng đến với phần soạn bài Tự do (P.Ê-Luy-A) để thấy được khát khao cháy bỏng, mãnh liệt của nhà thơ về sự tự do, đây cũng chính là khát vọng của hàng triệu người dân nước Pháp trên con đường đấu tranh chống lại phát xít Đức để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc mình.

SOẠN BÀI TỰ DO - P. Ê-LUY-A, ngắn 1

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. TÁC GIẢ:
1. Tiểu sử:
- Pôn Ê-luy-a (Paul Eluard, 1895 – 1952), bút danh của Ơ-gien Granh-đen (Eugene Grindel), nhà thơ thiên tài Pháp. Sự nghiệp thơ ca ông là đỉnh cao bất diệt trong lòng của mọi người dân yêu thơ, mọi nghệ sĩ sáng tác thơ trên toàn thế giới.
- Ông là con của một chủ hiệu sách. Mẹ ông làm nghề thợ may. Ông sinh ở Xanh Đơ-ni, ngoại ô Pa-ri. Thời thơ ấu ông trải qua những năm tháng êm đềm.
- Năm 16 tuổi, Ê-luy-a mắc bệnh lao, việc học đành gián đoạn. Ông được gia đình đưa sang Thuỵ Sĩ chữa bệnh.
- Năm 1918, Giăng Pôn-an (Jean Paulhan) phát hiện ra tài năng thi ca của Ê-luy-a và giới thiệu ông với Ăng-đre Bre-tông (André Breton) và A-ra-gông - những nhân vật chủ chốt của phong trào Siêu thực. Ê-luy-a. gia nhập nhóm thơ này.
- Năm 1934, Ê-luy-a kết hôn với Nu-sơ, tên thật là Ma-ri-a Ben (Maria Benz), nữ nghệ sĩ, người mẫu của bạn ông là Man Ray và Pa-blô Pi-cát-xô (Pablo Picasso), những nghệ sĩ nhóm Siêu thực.
- Cuộc nội chiến Tây Ban Nha tác động mạnh đến Ê-luy-a. Điều này được phản ánh trong tập thơ Đoàn kết (Solidarité, 1938). Thái độ sống của ông đã thay đổi. Ông quan tâm đến đời sống chính trị và ủng hộ tư tưởng cộng sản.
- Năm 1952, Ê-luy-a qua đời vì bệnh tim. Thi hài ông được mai táng tại nghĩa trang Cha La-se-dơ.
2. Sự nghiệp văn học
- Các tập thơ theo phong cách Siêu thực, tiêu biểu là các tập Những bài thơ đầu tiên (1914), Thủ đô của niềm đau (1921 - 1926)....
- Những tập thơ được in sau năm 1930 cho thấy khát vọng nhập cuộc và cống hiến của thơ Ê-luy-a bao gồm Quyển sách để mở (1940 -1942), Thơ và sự thật (1942), Nơi hẹn quân Đức (1944)...
3. Phong cách
- Ê-luy-a là nhà thơ siêu thực thiên tài của Pháp. Ông là bậc thầy của mảng thơ tình yêu. Tình yêu là hơi thở nồng ấm xuyên suốt thơ ông. Đấy chính là địa hạt thiêng liêng đích thực của thơ ca Ê-luy-a.
- Ông nổi tiếng với những vần thơ dung dị, mang đậm hơi thở cuộc sống, nhưng cũng thật kiêu kì và huyền bí.
- Cảm nhận thơ ông không khó, nhưng hiểu, cắt nghĩa rõ ràng thơ ông thật không dễ. Bởi thơ ông đề xuất một cách nhìn mới về cuộc đời. cũng như một cách cắt nghĩa mới về nó.
- Ông quan niệm thơ ca là vũ khí hữu hiệu trong sự nghiệp tiêu trừ cái xấu, cái ác.
- Đọc thơ ông, người đọc sẽ thấy cuộc sống đáng sống và con người đáng yêu hơn. Thơ Ê-luy-a có giá trị thanh lọc lớn, làm cao cả đạo đức và tâm hồn con người.
4. Chủ nghĩa Siêu thực
- Là trào lưu nghệ thuật được hình thành ở Pa-ri vào năm 1924 với việc xuất bản tuyên ngôn của nhóm siêu thực của Bre-tông.
- Bản tuyên ngôn của nhóm siêu thực công kích chủ nghĩa duy lí, phê phán phương thức tư duy logic tỉ mỉ, chính xác.
- Dựa trên lí thuyết của Phrớt về vô thức và mối quan hệ của vô thức với giấc mơ, các nhà siêu thực chủ trương khai phá những vùng còn bị che giấu hay bị khuất lấp trong tâm lí của con người mà không nhất thiết phải tuân theo trật tự suy lí hay phân tích tâm lí. .
- Họ thể nghiệm lối viết tự động hoá, được xem là phương thức tối ưu để thể hiện những hình ảnh văn chương siêu thực, bằng cách đặt ngẫu hứng các sự vật hiện tượng chẳng có mối liên hệ nào liền kề nhau.
- Chủ nghĩa siêu thực thực sự tạo nên một cuộc cách mạng lớn trong nhận thức, tư duy và sáng tạo của nghệ sĩ, trí thức trong khoảng thời gian giữa hai cuộc thế chiến. Các đại diện tiêu biểu của trào lưu này là A-ra-gông, Ê-luy-a, Đa-li,...
- Vào cuối thập niên 1930, dấu ấn siêu thực in đậm hơn trong hội hoa. Trong giai đoạn này, nhiều nhà Siêu thực gia nhập Đảng Cộng sản và cố gắng dung hoà các quan điểm của Phrớt với quan điểm của Mác.
II. TÁC PHẨM TỰ DO
1. Xuất xứ
- Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Ê-luy-a phục vụ trong lực lượng quân đội Pháp và sau đó trong hàng ngũ chiến sĩ Cộng sản.
Bài thơ Tự do của ông được sáng tác trong thời kì này (1942).
- Tác phẩm nổi tiếng đến mức được lực lượng kháng chiến in và được máy bay đồng minh thả xuống khắp nước Pháp để động viên tinh thần kháng chiến chống phát xít Đức. Thơ của ống giai đoạn này hừng hực sức chiến đấu nhưng nghệ thuật thơ thì lại đơn giản.
2. Những giá trị nội dung, nghệ thuật.
- Ca ngợi tự do là chủ đề của bài thơ Tự do. Không cầu kì, kiểu cách, nhà thơ hào hứng bày tỏ tình yêu dành cho quê hương, đất nước, con người.
- Xuất phát từ cái nhìn của một nhà thơ Siêu thực – cái nhìn không phân biệt ranh giới giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, cái cao cả và cái thấp hèn,... E-luy-a để mặc tâm hồn thoải mái bay đến những vùng miền mơ ước.
- Với cảm quan nghệ thuật siêu thực, tự do với Ê-luy-a trước hết là tự do trong nghệ thuật thể hiện thế giới nội tâm và hiện thực bằng ngôn từ.
- Ngôn từ thơ ca ông vô cùng phóng khoáng. Chúng có sức sống nội tại riêng, không hề phụ thuộc vào bất kì một định kiến hay sự áp đặt nào từ bên ngoài.
- Như thế ngợi ca tự do cũng đồng nghĩa với việc ca ngợi sự không giới hạn trong tư duy và cảm xúc của con người.
- Sự tái sinh của tự do làm tiền đề để tái sinh hình tượng thơ.
- Biên giới của tự do là vô tận. Hàm nghĩa của nó là vô tận.
- Khi gọi tên tự do, thì tự do đã hiện diện lên khắp mọi nơi mọi chốn mà trị giác con người có thể nhận thức.
- Tự do ấy chính là lẽ sống, là ý nghĩa tồn tại cho cuộc đời.
b) - Văn bản trích dạy bao gồm 12 khổ. Tất cả đều được kết thúc bằng điệp khúc: “Tôi viết tên em”.
- Sở dĩ, Tôi viết tên em chứ không phải là Ta biết tên em hay Anh biết tên em, là vì nếu thay tôi bằng một đại từ khác thì nó hoặc là quá gần gũi (anh), quá kiểu cách, trịch thượng (ta), phải là tôi để điều đó vừa là quan trọng vừa là gần gũi nhưng lại không kém phần thiêng liêng.
- Hơn nữa, tôi ấy còn ẩn dụ cho cái tôi, cái cá thể của con người.
- Mặt khác, bất kì ai cũng có thể đứng vào cái tôi ấy để ngợi ca tự do. Trong trường hợp này, tôi ấy cũng chính là chúng tôi, chúng ta. Những thực thể tự do ngợi ca tự do.
c) - Với cảm hứng nồng nhiệt với tự do – cảm hứng thể hiện lòng yêu nước trong lúc tổ quốc của nhà thơ đang bị phát xít Đức chiếm đóng, toàn bộ bài thơ không có một chút ngôn từ nào gợi cảm giác u buồn, mặc dù không ít lần Ê-luy-a sử dụng các tính từ, các từ ngữ mang sắc thái buồn: tro tàn, ẩm mốc, lụi dần,...
- Tất cả nội hàm biểu ý, biểu tình vốn có của các từ ngữ này , được lọc trong cái bể tinh thần lạc quan vô cùng tận của thi nhân.
d) – Cấu trúc của Tự do rất độc đáo:
- Bài thơ được viết theo lối liệt kê sự việc.
- Mỗi khổ có bốn câu và có cùng một điệp khúc cuối Tôi viết tên em. Các câu thơ còn lại mỗi câu chí ít cũng chứa đựng một sự việc.
- Các hình tượng thơ liên tiếp thay nhau xuất hiện, khiến bài thơ là cả sự phô diễn các hình ảnh, sắc màu. Sự huy hoàng và hùng tráng của âm hưởng thơ được đặt cả trên bốn từ tôi viết tên em ấy.
- Nhà nghệ thuật nhân hoá nên các hình ảnh thơ vốn thuộc nhiều địa hạt khác nhau, vốn chẳng mấy tương hợp nhau lại có thể đứng cạnh nhau và toả sáng.
- Bài thơ được cấu trúc theo kiểu vòng tròn nên có thể đọc mãi mà vẫn không chấm dứt. Tự do vì thế cũng sẽ vĩnh hằng theo thời gian.

B. TỰ LUẬN
1. Sắc thái Siêu thực được thể hiện như thế nào trong Tự do?
Gợi ý làm bài
- Trật tự tuyến tính, các lằn ranh giữa các sự vật hiện tượng bị xoá bỏ, tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc đồng hiện dựa trên logic của cảm xúc tâm lí, nhà thơ hồn nhiên bày tỏ ý tưởng chủ quan của mình.
- Việc xoá bỏ phạm vi đặc trưng từ loại cũng góp phần tạo nên tính siêu thực. Từ “trên” có lúc được dùng như từ “khi”. Với cách sử dụng ngôn từ ấy, những mệnh đề, từ ngữ đi với “khi” hầu hết được chuyển hoá thành danh từ (Trên hiểm nguy đã tan biến | Trên hi vọng chẳng vấn vương…).
- Nhà thờ trộn lẫn mọi cái thiêng liêng (vua quan, trang sách,...), mọi cái bình thường (khoanh bánh trắng,...), mọi hình ảnh ẩn dụ (đá, máu, giấy, tro tàn,...), mọi nét nghĩa thô kệch (núi non điên dại, nhễ nhại bão dông,...) sáp nhập vào với nhau. Tất cả nhằm tạo nên một không gian mênh mông, không có giới hạn cả trong vũ trụ lẫn thẳm sâu hồn người..
- Bất cứ vật ngăn cản hoặc chí ít gợn lên sự ngăn cản cũng đều bị xoá sổ: nơi trú ẩn tan hoang, ngọn hải đăng đổ nát, mấy bức tường ngao ngán,... Chỉ còn lại trong hình tượng thơ là khoảng bao la bát ngát: Trên sa mạc trên rừng hoang / Trên hồ vầng trăng lung linh / Trên hi vọng chẳng vấn vương.
2. Viết thành bài văn hoàn chỉnh cảm nhận của anh (chị) về bài thơ Tự do.
Gợi ý làm bài
Ê-luy-a là nhà thơ thiên tài của người Pháp. Ông nổi tiếng với những vần thơ dung dị, mang đậm hơi thở cuộc sống, nhưng cũng thật kiêu kì và huyền bí. Cảm nhận thơ ông không khó, nhưng hiểu, cắt nghĩa rõ ràng thơ ông thật không dễ. Bởi thơ ông đề xuất một cách nhìn về cuộc đời, cũng như một cách cắt nghĩa mới về nó.
Ca ngợi tự do là chủ đề của bài thơ Tự do. Không cầu kì, kiểu cách, mà có phần mộc mạc, bình dị nhà thơ hào hứng bày tỏ tình yêu dành cho quê hương, đất nước, con người. Xuất phát từ cái nhìn của một nhà thơ Siêu thực - cái nhìn không phân biệt ranh giới giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, cái cao cả và cái thấp hèn,... Ê-luy-a để mặc tâm hồn thoải mái bay đến những vùng miền mơ ước. Với cảm quan nghệ thuật này, tự do với Ê-luy-a trước hết là tự do trong nghệ thuật thể hiện thế giới nội tâm và hiện thực bằng ngôn từ. Ngôn từ thơ ca ông vô cùng phóng khoáng. Chúng có sức sống nội tại riêng, không hề phụ thuộc vào bất kì một định kiến hay sự áp đặt nào từ bên ngoài. Như thế ngợi ca tự do cũng đồng nghĩa với việc ca ngợi sự không giới hạn trong tư duy và cảm xúc của con người. Con người tự do là chủ nhân của mọi nguồn hạnh phúc.
Tâm hồn nghệ sĩ vốn yêu chuộng tự do. Người ta thường ví thi nhân như những cánh chim phiêu lưu vĩnh hằng trên bầu trời của ước mơ, sáng tạo. Trước Ê-luy-a, Huy-gô từng cho rằng nếu không có tự do thì không có sáng tạo nghệ thuật. Pu-skin dành những vần thơ đằm thắm nhất để ngợi ca tự do:

 

Bay, bay đi, ta loài chim tự do,
Bay về miền núi ngời sau mây xám.
Bay về vùng nước biển xanh phẳng lặng,
Bay về nơi chỉ có gió và ta.

Bai-rơn thì làm thơ kêu gọi tranh đấu cho tự do:

Hãy giương cờ tự do dù ở nơi đâu
Bởi gì hơn hiến đời cho nhân loại
Nếu chẳng may tim ăn đạn rơi đầu
Anh chết đấy nhưng để rồi sống mãi

Ê-luy-a thì viết tên tự do trên bất kì vật thể nào có thể: Trên sa mạc trên rừng hoang / Trên tổ chim trên hoa trái / Trên thời thơ ấu âm vang / Tôi viết tên em.
Văn bản trích dạy bao gồm 12 khổ. Tất cả đều được kết thúc bằng điệp khúc: “Tôi viết tên em”. Sở dĩ, Tôi viết tên em chứ không phải là Ta viết tên em hay Anh viết tên em,... là vì nếu thay tôi bằng một đại từ khác thì nó hoặc là quá gần gũi (anh), quá kiểu cách, trịch thượng (ta), phải là tôi để điều đó vừa là trân trọng vừa là gần gũi nhưng lại không kém phần thiêng liêng. Hơn nữa, tôi ấy còn ẩn dụ cho cái tôi, cái cá thể của con người. Mặt khác, bất kì ai cũng có thể đứng vào cái tôi ấy để ngợi ca tự do. Trong trường hợp này, tôi ấy cũng chính là chúng tôi, chúng ta. Những thực thể tự do ngợi ca tự do.
Không giống các nhà thơ siêu thực ở khía cạnh thần tượng lối viết tự động hoá, thơ E-luy-a bao giờ cũng hướng tới một giá trị hiện thực, một hiệu quả thẩm mĩ nhất định. Bao giờ thở Ê-luy-a cũng ngân vang giai điệu rạo rực của tình yêu, của niềm đắm say cuộc sống.
Xác định cho cái tôi tự do sự mênh mông không giới hạn, Ê-luy-a thênh thang thể hiện cảm xúc của mình, trên trang vở, trên bàn học, trên cây xanh, trên trang sách, trên đá, máu, giấy, trên tro tàn,... Có nghĩa bất cứ vật thể nào có thể viết, nhà thơ đều ghi lên hai chữ Tự do. Ngay cả những nơi theo suy nghĩ thông thường của chúng ta là không thế, thì nhà thơ vẫn cứ viết. Bằng cách đó, E-luy-a sáng tạo nên chất liệu viết của mình. Và cũng bằng cách đó, nhà thơ khai sinh ra một thế hệ độc giả mới – những người có thể thưởng thức thơ ông và đòi hỏi ở nghệ sĩ đương thời lối viết mới như thơ ông hoặc là mới theo cách khác:

Trên sa mạc trên rừng hoang
Trên tổ chim trên hoa trái
Trên thời thơ ấu âm vang
Tôi biết tên em
Trên điều huyền diệu đêm đêm
Trên khoanh bánh trắng hằng ngày
Trên các mùa cùng gắn bó
Tôi biết tên em

Các khổ thơ, các câu thơ, và thậm chí là cả từ ngữ nữa cũng có thể tự do kết hợp với nhau. Việc đổi khổ hay chuyển câu giữa các khổ cũng đều mang lại nghĩa như nhau cho văn bản. Chẳng hạn ở khổ thơ trên ta có thế đổi vị trí các câu như sau: Trên các mùa cùng gắn bó / Trên điều huyền diệu đêm đêm / Trên khoanh bánh trắng hằng ngày / Tôi viết tên em. Nghĩa của khổ thơ chẳng có gì thay đổi.
Thực hiện được điều phi thường này chỉ có ở thơ Siêu thực. Khi trật tự tuyến tính, khi các lằn ranh giữa các sự vật hiện tượng bị xoá bỏ, tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc đồng hiện dựa trên logic của cảm xúc tâm lí, nhà thơ hồn nhiên bày tỏ ý tưởng chủ quan của mình.
Thơ siêu thực là thơ của cái nhìn, một cách tân bậc nhất của loại thơ này. Nhà thơ siêu thực nhìn mọi thứ và viết theo cái nhìn không có giới hạn giữa cụ thể và trừu tượng, xoá bỏ tính nhị nguyên giữa sự vật có thất và tưởng tượng. Cái nhìn của các tác giả siêu thực xuyên suốt từ không gian thực sang không gian ảo...Vì lẽ đó giới từ trên xuất hiện dày
đặc trong Tự do.
Bên cạnh đó, việc xoá bỏ phạm vi đặc trưng từ loại cũng góp phần tạo nên tính siêu thực. Từ “trên” có lúc được dùng như từ “khí”. Với cách sử dụng ngôn từ ấy, những mệnh đề, từ ngữ đi với “khi” hầu hết được chuyển hoá thành danh từ (Trên hiểm nguy đã tan biến | Trên hi vọng chẳng vấn vương,...).
Phải nói cảm xúc thơ Siêu thực thật phi thường. Nhà thờ trộn lẫn mọi cái thiêng liêng (vua quan, trang sách,...), mọi cái bình thường (khoanh bánh trắng,...), mọi hình ảnh ẩn dụ (đá, máu, giấy, tro tàn,...), mọi nét nghĩa thô kệch (núi non điên dại, nhễ nhại bão dông,...) sáp nhập vào với nhau. Tất cả nhằm tạo nên một không gian mênh mông, không có giới hạn cả trong vũ trụ lẫn thắm sâu hồn người.
Để làm được điều này bất cứ vật ngăn cản hoặc chí ít gợn lên sự ngăn cản cũng đều bị nhà thơ xoá sổ: nơi trú ẩn tan hoang, ngọn hải đăng đổ nát, mấy bức tường ngao ngán,... Chỉ còn lại trong hình tượng thơ là khoảng bao la bát ngát: Trên sa mạc trên rừng hoang / Trên hồ sáng trăng lung linh / Trên hi vọng chẳng vấn vương.
Với cảm hứng nồng nhiệt với tự do – cảm hứng thể hiện lòng yêu nước trong lúc tổ quốc của nhà thơ đang bị phát xít Đức chiếm đóng, toàn bộ bài thơ không có một chút ngôn từ nào gợi cảm giác u buồn, mặc dù không ít lần Ê-luy-a sử dụng các tính từ, các từ ngữ mang sắc thái buồn: tro tàn, ẩm mốc, lụi dần,... Tất cả nội hàm biểu ý, biểu tình vốn có của các từ ngữ này đều được lọc trong cái bể tinh thần lạc quan vô cùng tận của thi nhân. Như thế đóng góp lớn nữa của thơ Siêu thực được ghi nhận ở ngay chính việc chuyển hoá nội hàm ngữ nghĩa của từ.
Làm thơ bao giờ cũng sử dụng biện pháp nhân hoá cho dù nhà thơ thuộc bất kì thời đại hay phong cách nào đi nữa. Ê-luy-a không phải ngoại lệ. Thông thường thi nhân nhân cách hoá các sự vật hiện tượng tự nhiên (Xuân Diệu viết về liễu: Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang...) chứ hiếm khi nhân cách hoá các khái niệm xã hội mang tính trừu tượng. Ê-luy-a làm ngược lại. Ông nhân cách hoá tự do.
Tự do vốn là khái niệm trừu tượng, được khai sinh từ xã hội, nhằm khẳng định yếu tố cá nhân hoặc cộng đồng khỏi những ràng buộc bất lợi hoặc mang lại thua thiệt cho cá nhân hoặc cộng đồng đó. Kể từ khi gọi tự do là em, với hàm ý là cô gái, thậm chí là tình nhân, Ê-luy-a khoác cho cái vỏ âm thanh ấy một hình hài, người đọc có thể hình dung được.
Trước Ê-luy-a, Franz Káp-ka trong truyện của mình đã sử dụng rất thành công thủ pháp này. Pháp luật vốn là khái niệm trừu tượng nhưng Káp-ka đặt cho nó một cánh cửa trong truyện Trước cửa pháp luật thì lập tức nó có hình hài và trở thành sự vật cụ thể. Hơn thế, Káp ka còn đặt vào đây một tên lính canh và một người nông dân muốn vào tìm hiểu pháp luật. Nhờ thế, ngay trước mắt người đọc hiện lên một toà nhà pháp luật độc đáo.
Bài thơ Tự do được viết theo lối liệt kê sự việc. Mỗi khổ có bốn câu và có cùng một điệp khúc cuối Tôi viết tên em. Các câu thơ còn lại mỗi câu chí ít cũng chứa đựng một sự việc. Nhờ vậy, các hình tượng thơ liên tiếp thay nhau xuất hiện, khiến bài thơ là cả sự phô diễn các hình ảnh, sắc màu. Sự huy hoàng và hùng tráng của âm hưởng thơ được đặt cả trên bốn từ tôi viết tên em ấy. Nhờ nghệ thuật nhân hoá này nên các hình ảnh thơ vốn thuộc nhiều địa hạt khác nhau, vốn chẳng mấy tương hợp lại có thể đứng cạnh nhau, tương giao và toả sáng.
Đương nhiên, Ê-luy-a cũng ao ước – ước được tái sinh một lần nữa trên đời:

Và bằng phép màu một tiếng.
Tôi bắt đầu lại cuộc đời
Tôi sinh ra để biết em
để gọi tên em
Tự do

Chỉ có yêu đời, khao khát và tha thiết sống thì con người ta mới muốn được tái sinh trên cõi đời. Bài thơ vì thế ngập tràn niềm tin yêu cuộc sống. Mơ ước tái sinh, đồng nghĩa với ước mơ luân hồi một sự sống. Sự sống có được là nhờ được tắm trong bầu tự do: Tôi sinh ra để biết em / để gọi tên em. Không có tự do, sự sống sẽ không còn ý nghĩa. Lúc đó sống cũng như đã chết. Sống không đáng sống. Tôi và em – tự do đã hoà làm một. Không thể gì chia tách.
Sự tái sinh của cá thể ấy làm tiền đề để tái sinh hình tượng thơ. Đúng hơn là để tái sinh tự do, như cái kết cấu vòng tròn của nó. Người đọc có thể đọc mãi vẫn không hết bài thơ. Cũng như tự do, ngôn từ của nó là vô cùng. Biên giới của nó là vô biên. Hàm nghĩa của nó là vô tận. Khi ta nói tên tự do, thì tự do đã hiện diện lên khắp mọi nơi mọi chốn mà tri giác con người có thể nhận thức. Tự do ấy chính là lẽ sống, là ý nghĩa tồn tại, là hạnh phúc đích thực cho cuộc đời.

 

SOẠN BÀI TỰ DO - P. Ê-LUY-A, ngắn 2

Câu 1. Đọc kĩ bài Tự do để hiểu được chủ đề tác phẩm. Tìm hiểu chủ đề, cách liệt kê các hình ảnh trong bài thơ (chú ý tính chất hình ảnh thị giác)

Trả lời :
- Chủ đề bài thơ là về sự tự do. 
- Tự do trở thành cụm từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên khát khao tự do cháy bỏng
-Biện pháp nhân hóa khiến tự do trở thành con người vĩ đại ai cũng muốn hướng tới
 
Câu 2. Tìm hiểu kết cấu “Tôi viết tên em" ở mỗi khổ thơ cách lặp từ theo lối “xoáy tròn" và nhạc điệu bài thơ cách sử dụng đại từ “em" trong bài thơ?
Trả lời: 
* Nghệ thuật tạo câu trùng điệp: “Tôi viết tên em” có tác dụng :
- Sự lặp lại tạo ra điệp khúc như nhạc điệu dội vào tâm hồn người đọc, người nghe .
- Gợi niềm tin chắc chắn, vững bền không thể đổi thay.
*cách lặp từ theo lối “xoáy tròn" và nhạc điệu bài thơ cách sử dụng đại từ “em" trong bài thơ
làm cho chất thơ, chất nhạc, chất họa đươc phát huy cao độ
 thể hiện tình cảm sâu nặng của người viết với “em” trong bài thơ, hướng tới “ em Tự Do” là niềm tin ao ước không bao giờ dừng lại.
 
Câu 3. So sánh từ “trên” được sử dụng nhiều lần với ý nghĩa chỉ không gian và thời gian .
Trả lời: 
- Là trạng ngữ chỉ địa điểm: làm thời gian không gian hóa hư vô, trở thành các địa điểm, thời gian vô định nhưng đâu cũng có thể tìm thấy.
 
Câu 4. Câu thơ “Tôi viết tên em" được lặp lại trong từng khổ thơ, "tôi" có thể là tác giả và cũng có thể là những độc giả, "viết" có thể là ghi, chép, hành động. Hãy suy luận để chỉ ra tính chất "Thánh ca" của bài thơ này trong cuộc kháng chiến chống phát xít Đức.
Trả lời: 
- “Tôi” đều biểu hiện tự do cháy bỏng, mãnh liệt. 
- “Em” (tự do) đã ngự trị “tôi” và suy nghĩ hành động của “tôi” luôn hướng về “em”. 
⟹ Bài thơ giống như lời của một bản trường ca, một khúc hát dài ca ngợi và kêu gọi tự do (trong hoàn cảnh nước Pháp bị phát xít Đức xâm lược, tác phẩm trở thành bài "Thánh ca”, kêu gọi nhân dân Pháp đấu tranh vì tự do, giải phóng đất nước). 

---------------------HẾT----------------------

Bên cạnh Soạn bài Tự do (P.Ê-Luy-A) các em cần tìm hiểu thêm những bài soạn khác trong Ngữ Văn lớp 12 như Soạn bài Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận hay nhằm củng cố kiến thức Ngữ Văn lớp 12 của mình.

Ngoài nội dung đã học ở trên, các em có thể chuẩn bị và tìm hiểu trước chi tiết nội dung phần Phân tích bài thơ Tây Tiến của tác giả Quang Dũng để nắm vững những kiến thức Ngữ Văn 12 của mình.

https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-bai-tu-do-pe-luy-a-38872n.aspx

Tác giả: Nguyễn Hải Sơn     (3.8★- 15 đánh giá)  ĐG của bạn?

  

Bài viết liên quan

Word - Tự động lưu văn bản khi đang soạn thảo trong Word 2007
Soạn bài Bố của Xi-mông (Guy-đơ Mô-pa-xăng), Ngữ văn lớp 7, Cánh Diều, Tự đánh giá
Soạn bài Ôn tập cuối học kì II ngắn nhất, Ngữ văn 7 - Cánh Diều
Soạn bài Người kể chuyện trong văn bản tự sự
Giải toán lớp 4 trang 64, 65 sách CTST tập 1, So sánh và xếp thứ tự các số tự nhiên
Từ khoá liên quan:

soan van bai tu do p e luy a

, huong dan soan bai tu do p e luy a, soan bai tu do p e luy a ,
SOFT LIÊN QUAN
  • AnthemScore

    Tạo nhạc phổ tự động cho bài hát trên máy tính, PC

    AnthemScore 5 là phiên bản mới nhất của phần mềm tự động chuyển đổi âm thanh thành bản nhạc, sử dụng công nghệ AI tiên tiến. Người dùng có thể dễ dàng chuyển đổi các file âm thanh như MP3 và WAV thành sheet music, giúp tiết kiệm thời gian cho những ai cần tạo bản nhạc nhanh chóng và chính xác. Phần mềm AnthemScore 5 hỗ trợ nhiều định dạng xuất khác nhau như PDF và MIDI.

Tin Mới