Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, để làm nổi bật nhân vật trung tâm là ông lái đò, tác giả đã tập trung miêu tả dòng sông với hai nét tính cách trái ngược. Mời em tham khảo bài mẫu Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà để hiểu thêm về điều này nhé.
Đề bài: Phân tích hình tượng con sông Đà trong Người lái đò sông Đà.
Dàn ý, bài văn mẫu Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
I. Dàn ý Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà ngắn gọn
1. Mở bài:
- Sơ lược về tác giả Nguyễn Tuân
- Hình tượng con sông Đà trong tùy bút Sông Đà.
>>> Tham khảo thêm nhiều cách viết mở bài tùy bút Người lái đò sông Đà hay, ấn tượng tại đây.
2. Thân bài:
a. Lời đề từ:
- “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu” => Dòng chảy khác thường chẳng giống ai này của con sông đã khơi gợi lên trong tâm hồn của Nguyễn Tuân những ấn tượng và cảm xúc đặc biệt.
- “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, bày tỏ cái nỗi lòng thương mến, xúc động trước vẻ đẹp của con sông hùng vĩ bậc nhất Tổ quốc, khơi gợi ra vẻ đẹp nên thơ trữ tình của dòng sông Đà.
b. Vẻ hung bạo, dữ dội và hùng vĩ của dòng sông:
* Hình ảnh:
- Thác đá, ghềnh đá với độ dốc lớn, nước chảy xiết vô cùng hung hiểm.
- “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông như yết hầu”, “con nai nai con hổ đã có lần vọt qua bờ bên kia”,”đang màu hè mà cũng cảm thấy lạnh”.
=> Dòng sông hiện lên với những nét bí hiểm, khó lường.
* Âm thanh:
- “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”.
- “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”.
- Quái dị, với điệu bộ “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, khiến người ta phải dè chừng.
- “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”, gợi ra sự giận dữ, cảm giác sôi động của dòng sông khúc đổ thác, mở ra những dự báo về sự hủy diệt mạnh mẽ, điên cuồng của dòng sông.
=> Sử dụng những câu văn ngắn, kết cấu trùng điệp, cùng với các từ ngữ đặc tả cực hạn, tất cả đã mang đến những cảm xúc dữ dội, hãi hùng, và ghi ấn tượng sâu sắc về một con sông Đà với cái vẻ hầm hố, ngang tàn.
* Hút nước:
- Được xây dựng bằng những hình ảnh rất độc lạ “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “Mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh”, tựa “Cốc pha lê nước khổng lồ”, rồi thì “Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải”,...
- Liên tưởng thú vị đậm chất nghệ thuật ví như hình ảnh một anh quay phim cầm máy ảnh, cho cả mình cả máy quay xuống cái hút nước của sông Đà để có những khung hình tuyệt vời nhất, đem đến cho độc giả những cảm xúc chân thực.
* Trùng vi thạch trận:
- Với những cửa sinh, cửa tự ngặt nghèo mà con sông đã giăng mắc ra để đánh bẫy những kẻ đi ngang qua nó, vô cùng nham hiểm và xảo quyệt.
- Đá ở đây nghìn năm vẫn mai phục dưới lòng sông, chỉ trực chờ mỗi lần có chiếc thuyền nào mà đi qua khúc sông quạnh quẽ này thì chúng liền “nhổm cả dậy” để vồ lấy thuyền, hòn nào hòn nấy cũng mang bộ dạng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, hòn đứng, hòn ngồi, hòn lại nằm,...
- Đá ở sông Đà chọn riêng cho mình một nhiệm vụ, dưới sự phân chia binh pháp của “thần sông thần đá”, lập thành hẳn ba “trùng vi thạch trận”, chỗ thì dàn hàng ngang chặn lối, chỗ lại đứng giữa khiêu khích, dẫn dụ, chỗ thì đòi đánh “giáp lá cà”, chỗ nhảy ra phục kích.
=> Con sông Đà hiện lên như một kẻ thù không đội trời chung với con người, mỗi trận chiến đều là kẻ sống ta chết, không chừa lối thoát.
c. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông:
- Mềm mại, dài rộng với hình ảnh “cái dây thừng ngoằn ngoèo”.
- Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông hiện lên qua những liên tưởng rất đặc sắc, dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. => Duyên dáng yêu kiều, quyến rũ cả núi rừng Tây Bắc, nhưng cũng mang cả những nét đỏng đảnh, khó chiều của một mỹ nhân hiếm có.
- Sự biến đổi lãng mạn của con sông qua từng mùa,“Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô”, “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.
=> Dịu dàng, nên thơ nhưng cái tính trái khuấy, thích làm mình làm mẩy, giận dỗi với cả Tây Bắc thì nó chưa bao giờ bỏ được.
- Và với Nguyễn Tuân con sông ấy không chỉ là một mỹ nhân, mà còn là một “cố nhân”, đôi lúc còn là một “tình nhân chưa quen biết”, rất tình tứ, yêu thương với cảm xúc “màu nắng tháng ba Đường thi”.
3. Kết bài:
Nêu cảm nhận. Nếu bí ý tưởng cho cái kết của bài văn, các em cùng tham khảo tại Kết bài người lái đò sông đà này.
II. Bài văn mẫu Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà hay nhất
Mẹo Phương pháp phân tích đoạn văn, đoạn thơ hay, thu hút người đọc
1. Phân tích hình tượng con sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà siêu hay, mẫu số 1 (Chuẩn):
Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987), quê gốc ở thủ đô Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học, nhưng lại gặp buổi Hán học đã tàn, người thân phụ dâu tài hoa nhưng lại bất đắc chí trong con đường công danh cũng là người đã có nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến con đường sáng tác của Nguyễn Tuân. Sở trường của Nguyễn Tuân là tùy bút và ký, bên cạnh đó ông cũng tham gia sáng tác cả truyện ngắn và tiểu thuyết, đồng thời ông còn là một diễn viên điện ảnh, kịch nói. Cuộc đời ông trải qua hai giai đoạn sáng tác, thuở đầu đề tài của ông chủ yếu hoài niệm về những vẻ đẹp cũ trong văn hóa dân tộc, chủ nghĩa “xê dịch” thoát ly, sau là phê phán lối sống trụy lạc, tầm thường. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân bắt đầu viết về đề tài yêu nước, ca ngợi vẻ đẹp của con người và thiên nhiên trong công cuộc lao động sản xuất. Có thể nhận xét chung về Nguyễn Tuân, với mấy chữ là uyên bác và tài hoa, văn chương của ông nổi bật lên với một chữ “ngông” rất riêng biệt, nêu bật lên cái cá tính muốn “xê dịch”, kết hợp với nghệ thuật sử dụng câu từ Tiếng Việt điêu luyện bậc thầy đã làm nên một Nguyễn Tuân - với ngón tùy bút đỉnh cao của văn học Việt Nam, được xếp vào 1 trong 9 tác giả văn học hiện đại tiêu biểu nhất. Người lái đò sông Đà trích rút từ tập tùy bút Sông Đà (1960), một trong những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân đã thể hiện được hoàn toàn cá tính và lối hành văn của nhà văn, trong đó nổi bật lên là hình ảnh con sông Đà với hai cá tính đối lập, vừa hùng vĩ, dữ dội, nhưng cũng chẳng thiếu phần dịu dàng, lãng mạn đậm chất trữ tình.
Văn mẫu phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân đã mượn thơ của Nguyễn Quang Bích để làm lời đề từ cho tác phẩm của mình rằng: “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”, rằng mọi con sông đều chọn xuôi dòng về hướng đông, riêng chỉ một mình con sông Đà chọn ngược dòng về hướng Bắc. Có lẽ rằng với cái thế chảy ngược đời chẳng giống ai này của con sông đã khơi gợi lên trong tâm hồn của Nguyễn Tuân sự đồng cảm và thấu hiểu sâu sắc, bởi lẽ bản thân nhà văn cũng là một con người có cái “tôi” rất riêng, với ngòi bút độc lạ được ví như cây độc huyền cầm của nền văn chương nước ta. Chính vì thế nên từng câu chữ mà người viết về sông Đà luôn có một cái gì đó rất chuyên chú, rất tình cảm và thấm thía hơn bao giờ hết. Thế nên Nguyễn Tuân cũng mượn thêm một câu thơ khác của nhà thơ Ba Lan Wladyslaw Broniewski viết rằng: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, bày tỏ cái nỗi lòng thương mến, xúc động trước vẻ đẹp của con sông hùng vĩ bậc nhất Tổ quốc, khơi gợi ra vẻ đẹp nên thơ trữ tình của dòng sông Đà với “tiếng hát” bay bổng, lãng mạn.
Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ rất tận tâm với nghề nghiệp của mình, sự uyên bác, tài hoa của ông thể hiện trong việc dẫn dắt người đọc tìm về nguồn gốc của con sông với những kiến thức Địa lý sâu rộng. Sông Đà vốn bắt nguồn từ Trung Quốc, trải qua hơn 400km lưu lạc nơi xứ người, rồi với về đến Việt Nam chính thức nhập tịch vào nước ta tại Mường Tè, Lai Châu. Nguyễn Tuân viết như thế, khiến độc giả bỗng có cảm tưởng, ừ hóa ra sông Đà cũng như một con người lam lũ, bôn ba, lắm tài nhưng cũng nhiều tật, trải qua biết bao sóng gió của cuộc đời, rồi khi bước chân vào nước ta nó mới lại có cái bộ dạng khó ở, lúc hung hăng, giận dữ, lúc lại hiền hòa, dịu êm. Khiến người ta phải quan sát, suy ngẫm thật nhiều về cuộc đời có lẽ chất chồng đầy chông gai, bão táp của con sông đặc biệt này.
Ở đầu đoạn trích, sông Đà đã hiện lên với một hình hài và dáng vẻ vô cùng hung bạo, nhưng lại mang trong mình những vẻ đẹp dữ dội và hùng vĩ nơi thượng nguồn, với hình ảnh những thác đá, ghềnh đá với độ dốc lớn, nước chảy xiết vô cùng hung hiểm. Người đọc ấn tượng với những hình ảnh hấp dẫn thể hiện sự tỉ mỉ, tinh tế của nhà văn trong công cuộc khám phá con sông Đà ví như “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông như yết hầu”, “con nai nai con hổ đã có lần vọt qua bờ bên kia”,”đang màu hè mà cũng cảm thấy lạnh”, khiến dòng sông hiện lên với những nét bí hiểm, khó lường, điệu bộ như đang ngấm ngầm quan sát từng con người bước vào lòng sông vậy. Nếu như hình ảnh mang đến cảm giác lạnh lẽo, rùng rợn thì âm thanh lại mang đến sự hung bạo và dữ dằn dường như đang thách thức và phô diễn cái vẻ hoang sơ, hùng vĩ của dòng sông. Tác giả chọn viết về ghềnh Hát Loóng với lối viết trùng điệp và nghệ thuật dùng từ độc đáo, khúc ghềnh ấy “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Làm nổi bật nên hình ảnh của một con sông dữ dằn, kinh khủng, cùng hình tượng ghềnh thác liên tiếp, gập ghềnh hiểm trở, sẵn sàng nuốt chửng bất kỳ kẻ nào lỡ sẩy chân lọt vào tầm ngắm. Cảm giác hầm hè, hung dữ của con sông còn tiếp tục được tác giả miêu tả ở cả quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La, với tiếng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Đôi lúc người ta còn cảm thấy con sông Đà có phần quái dị, với điệu bộ “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, khiến người ta phải dè chừng”. Rồi có lúc lại “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”, gợi ra sự giận dữ, cảm giác sôi động của dòng sông khúc đổ thác, mở ra những dự báo về sự hủy diệt mạnh mẽ, điên cuồng của dòng sông, đe dọa tất cả những kẻ có ý định thách thức nhằm vượt đoạn thác này. Cảm xúc mạnh mẽ và ấn tượng đó đến từ cách sử dụng những câu văn ngắn, kết cấu trùng điệp, cùng với các từ ngữ đặc tả cực hạn, tất cả đã mang đến những cảm xúc dữ dội, hãi hùng, và ghi ấn tượng sâu sắc về một con sông Đà với cái vẻ hầm hố, ngang tàn.
Dĩ nhiên rằng con sông Đà không chỉ có mỗi những hình ảnh và âm thanh kỳ quái như thế, mặc dầu chúng ta cũng thấy nó đủ khủng khiếp rồi. Thế nhưng cái đặc sắc và ấn tượng hơn tất thảy có là hình ảnh những cái hút nước của con sông - mối kinh sợ của những người lái đò. Có lẽ chẳng có ai có thể đặc tả những cái xoáy nước này hay và ấn tượng hơn Nguyễn Tuân được, nhà văn đã tỉ mỉ quan sát, và thậm chí đã từng trải nghiệm cảm giác vượt thác sông Đà, để cho ra những góc nhìn rất kính nghiệp. Trong lăng kính của Nguyễn Tuân những cái hút nước được xây dựng bằng những hình ảnh rất độc lạ “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “Mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh”, tựa “Cốc pha lê nước khổng lồ”, rồi thì “Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải”,... Chỉ bấy nhiêu câu chữ thôi, thế nhưng cũng đã đủ để người ta hình dung ra những cái xoáy nước vừa đẹp nhưng cũng sẵn sàng nuốt chửng bất cứ kẻ nào dám bén mảng lại gần nó, nguy hiểm vô cùng. Một điều thú vị nữa là, vốn dĩ Nguyễn Tuân là một diễn viên và đạo diễn điện ảnh thế nên trong tùy bút của ông không bao giờ thiếu những liên tưởng thú vị đậm chất nghệ thuật ví như hình ảnh một anh quay phim cầm máy ảnh, cho cả mình cả máy quay xuống cái hút nước của sông Đà để có những khung hình tuyệt vời nhất, đem đến cho độc giả những cảm xúc chân thực như bản thân tự nhìn thấy vậy.
Một điểm nhấn khác khi Nguyễn Tuân nói về sông Đà ấy là những cái “trùng vi thạch trận” với những cửa sinh, cửa tự ngặt nghèo mà con sông đã giăng mắc ra để đánh bẫy những kẻ đi ngang qua nó, vô cùng nham hiểm và xảo quyệt. Kiến tạo nên cái “thạch trận” ghê gớm ấy là lũ đá với hình dạng quái dị và tính tình cũng chẳng dễ chịu gì cho cam. Mà theo như Nguyễn Tuân nói thì đá ở đây nghìn năm vẫn mai phục dưới lòng sông, chỉ trực chờ mỗi lần có chiếc thuyền nào mà đi qua khúc sông quạnh quẽ này thì chúng liền “nhổm cả dậy” để vồ lấy thuyền, hòn nào hòn nấy cũng mang bộ dạng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, hòn đứng, hòn ngồi, hòn lại nằm, muôn hình vạn trạng. Những hòn đá ấy chính là tay chân của con sông Đà ghê gớm này, chúng dường như có linh tính, bày binh bố trận, lại giở trò khiêu khích, dường như có thù với tất cả những người đi qua khúc này, hoặc giả như lũ sơn tặc, biến những người lái đò thành miếng mồi ngon, quả là không thể khinh thường. Chúng là những tay lão luyện, đứa nào cũng chọn riêng cho mình một nhiệm vụ, dưới sự phân chia binh pháp của “thần sông thần đá”, lập thành hẳn ba “trùng vi thạch trận”, chỗ thì dàn hàng ngang chặn lối, chỗ lại đứng giữa khiêu khích, dẫn dụ, chỗ thì đòi đánh “giáp lá cà”, chỗ nhảy ra phục kích. Thông qua đôi mắt của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên như một kẻ thù không đội trời chung với con người, mỗi trận chiến đều là kẻ sống ta chết, không chừa lối thoát. Cũng chính vì điều ấy mà hình tượng người lái đò hiện lên thật ấn tượng và đặc sắc trong lòng người đọc sau trận chiến với con sông ngỗ nghịch đáng gờm này.
Bên cạnh vẻ hung bạo, dữ dội và hùng vĩ thì con sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, nên thơ sau khi về tới khúc sông ở hạ lưu, dòng sông trở nên hiền hòa và đằm thắm hơn hẳn trái ngược với cái vẻ bí hiểm, ghê gớm lúc thượng nguồn. Từ điểm nhìn trên cao và xa Nguyễn Tuân đã vẽ ra hình dáng của dòng sông thật mềm mại, dài rộng với hình ảnh “cái dây thừng ngoằn ngoèo”. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông hiện lên qua những liên tưởng rất đặc sắc, dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Người ta nhận ra trong ấy là cái nét duyên dáng yêu kiều của một thiếu nữ e ấp, với mái tóc suôn dài, ẩn hiện trong sương khói, quyến rũ cả núi rừng Tây Bắc, nhưng cũng mang cả những nét đỏng đảnh, khó chiều của một mỹ nhân hiếm có. Rồi bằng tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, bằng tâm hồn tinh tế và nhạy cảm của mình, Nguyễn Tuân còn quan sát thấy cả sự biến đổi lãng mạn của con sông qua từng mùa, dáng vẻ nào cũng như khắc sâu vào lòng người đọc. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô”, “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Đấy con sông Đà đã hiện lên một cách sinh động như thế, dẫu có dịu dàng, nên thơ nhưng cái tính trái khuấy, thích làm mình làm mẩy, giận dỗi với cả Tây Bắc thì nó chưa bao giờ bỏ được. Và với Nguyễn Tuân con sông ấy, không chỉ là một mỹ nhân, mà còn là một “cố nhân”, đôi lúc còn là một “tình nhân chưa quen biết”, rất tình tứ, yêu thương với cảm xúc “màu nắng tháng ba Đường thi của “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu””. Người cố nhân ấy là người bạn tri kỷ, thân thiết, dẫu đôi lúc có gắt gỏng, khó chiều, nhưng trân quý vô cùng. Rôi những hình ảnh nương ngô, đàn hươu, đồi cỏ gianh, bờ sông hoang dại,... đã mang đến cho sông Đà một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc và cổ điển, khơi gợi người ta nhớ về những ngày tháng xưa kia, êm đềm và lặng lẽ…
Bằng thái độ kính nghiệp, tinh thần nghệ sĩ, ham tìm tòi khám phá và ngòi bút độc đáo, uyên bác và tài hoa của mình, sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân đã hiện lên như một thực thể có linh hồn, có cuộc đời với những nét cá tính tính đối lập vừa hung bạo, hùng vĩ nhưng cũng lại có vẻ nên thơ, trữ tình. Từ đó là nổi bật lên tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào với vẻ đẹp hoang sơ hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc qua lối hành văn phóng khoáng, tỉ mỉ, chân thực và sáng tạo không ngừng nghỉ.
>>> Các đề văn liên quan đến tác phẩm Người lái đò sông Đà hay, đạt điểm cao cho học sinh THPT
Bên cạnh đề văn phân tích hình ảnh con sông Đà, các đề kiểm tra, đề thi môn ngữ văn liên quan đến tác phẩm tùy bút người lái đò sông Đà cũng phổ biến với với các đề yêu cầu Tóm tắt Người lái đò Sông Đà, Phân tích ý nghĩa nhan đề Người lái đò sông đà , Cảm nhận về Người lái đò sông Đà, cảm nhận vẻ đẹp của con sông Đà, Phân tích hình tượng người lái đò sông đà hay Sơ đồ tư duy Người lái đò sông đà... Các em học sinh cần tham khảo các bài văn mẫu này để hiểu rõ về tác phẩm cũng như cải thiện kỹ năng viết của mình, giúp bài văn thêm chặt chẽ, logic, mạch lạc hơn.
2. Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà hay đạt điểm cao, mẫu số 2:
Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước... Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí "Người lái đò sông Đà" đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.
"Người lái đò sông Đà" rút từ tập tùy bút "Sông Đà" của Nguyễn Tuân. Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà - dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình.
Phân tích hình ảnh sông Đà trong Tùy bút Người lái đò sông Đà chi tiết
Vách đá "đá bờ sông dựng vách thành" và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách: Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách... "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
"Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm..." bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người. Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên ..." những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá. Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng gằn mà chế nhạo". Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: "nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa ... rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng..." Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.
Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: "Cả một chân trời đá ... mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền"...
Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn...
Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.
Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì "kẻ thù số một của con người". Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút Việt Nam.
Dòng sông Đà không chỉ có những "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá" mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo ..."
Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa: "Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến". Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa ..." Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang "sắp đổ ra sông Đà". Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương"... Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa... lặng tờ "như từ Lí, đời Trần, đời Lê".
Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có - Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.
Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút "Người lái đò sông Đà" chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.
3. Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà hay của học sinh giỏi, mẫu số 3:
3.1. Dàn ý Phân tích hình tượng con sông Đà:
3.1.1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.
- Giới thiệu về hình tượng dòng sông Đà vừa hung bạo vừa thơ mộng, trữ tình.
3.1.2. Thân bài:
a) Hình tượng sông Đà hung bạo:
- Đá hai bên bờ sông dựng thành vách thẳng đứng, chỉ khi chính ngọ mới nhìn thấy mặt trời.
- Đoạn mặt ghềnh Hát Loóng: "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn…"
- Cái hút nước Tà Mường Vát: như những cái giếng bê tông , "thở và kêu như cửa cống bị sặc"
- Thác nước sông Đà được so sánh, liên tưởng đến tiếng "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "tiếng một ngàn con trâu mộng" gầm thét,... => So sánh độc đáo, khác lạ.
- Thạch trận sông Đà được nhân hóa, so sánh đặc biệt:
+ Cả một "chân trời đá", mỗi hòn một dáng vẻ.
+ Những hòn đá kết hợp với nhau tạo thành 3 vòng thạch trận.
b) Hình tượng sông Đà thơ mộng, trữ tình:
- Từ trên cao nhìn xuống, sông Đà tuôn dài như áng tóc trữ tình => So sánh, nhân hóa để thấy dáng vẻ mềm mại của dòng sông.
- Màu nước sông Đà biến đổi theo mùa với vẻ đẹp rất riêng.
- Dòng sông Đà gợi cảm như một cố nhân:
+ Mặt sông lấp lánh ánh nắng chiếu xuống.
+ Chuồn chuồn bươm bướm bay bên bờ bãi sông Đà.
+ Đi rừng lâu ngày mà thèm chỗ thoáng, trông thấy dòng sông Đà mà vui sướng, hạnh phúc, kinh ngạc.
- Cảnh ven sông Đà lặng tờ như ngàn đời nay vẫn vậy.
+ Nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà không có một bóng người.
+ Đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm.
-> "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa".
c) Nghệ thuật:
- Giọng văn trữ tình, giàu liên tưởng, tưởng tượng.
- Các phép so sánh độc đáo, câu văn linh hoạt, diễn tả được đặc điểm của từng khúc sông. Khi thì dữ dội mạnh mẽ, khi thì mềm mại, dịu dàng.
- Sử dụng nhiều thuật ngữ, kiến thức từ các ngành khoa học, các chuyên ngành khác nhau.
=> Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang viết tài hoa, tuyệt mĩ về dòng sông Đà quen thuộc.
3.1.3. Kết bài:
- Khái quát lại về hình tượng dòng sông Đà trong bài tùy bút.
3.2. Bài văn mẫu Phân tích hình tượng con sông Đà hung bạo và trữ tình siêu hay
"Người lái đò sông Đà" là một trong những bài bút kí đặc sắc của Nguyễn Tuân. Ngoài nhân vật trung tâm là ông lái đò thì nhà văn cũng đã miêu tả rất tỉ mỉ về Đà giang. Dòng sông ở thượng nguồn và hạ lưu có hai tính cách đối lập hẳn nhau. Nếu ở thượng nguồn, nó mang vẻ đẹp dữ dội, hung bạo như muốn nuốt chửng bất cứ ai đi qua đó thì đến hạ lưu, con sông lại dịu dàng lại, êm đềm, trữ tình, nên thơ.
Mở đầu, ta bắt gặp những hòn đá hai bên bờ sông cao vút, dựng đứng như thành quách, khiến lòng sông đã hẹp càng thêm chật chội. Không gian bí bách khiến cho con người cảm giác bí bách, ngột ngạt, bức bối và sợ hãi. Dòng sông có những đoạn như mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm". Đây là nơi nguy hiểm, bất cứ người lái đò nào đi qua khúc sông này mà không thận trọng chèo lái cũng dễ "lật ngửa bụng thuyền ra". Các hình ảnh "sóng, gió, đá" kết hợp với động từ "xô" tạo ra âm thanh dữ dội, vang động khắp cả một khúc sông. Những từ ngữ gợi tả "cuồn cuộn", "ghùn ghè" thể hiện tiếng gió rít rùng rợn, gào rú hoang dã thách thức lòng can đảm của mọi người. Thoát khỏi mặt ghềnh, ta lại phải tiếp tục đối mặt với những cái hút nước. Nó "như giếng bê tông" lớn, đen ngòm, sâu hoắm và tối tăm. Tiếng nước ở nơi đây cũng gợi cho người ta cảm giác rùng rợn, sợ hãi: "thở và kêu như cửa cống bị sặc", "ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi". Những cái hút nước ấy "lôi tuột", "hút xuống", khiến cho những chiếc thuyền "vụt biến", "đi ngầm" dưới lòng sông rồi "tan tác". Những từ ngữ Nguyễn Tuân sử dụng đã cho người đọc thấy được sự dữ dội, mạnh bạo cũng như uy lực khủng khiếp của tự nhiên. Ở đoạn tiếp theo, tác giả đã sử dụng bút pháp liên tưởng, tưởng tượng, so sánh để diễn tả tiếng thác nước sông Đà. Dù không gây hại đến người chèo đò nhưng tiếng thác nước nghe như "oán trách", như "van xin", "khiêu khích" rồi lại như tiếng một ngàn con trâu mộng gầm thét khi bị cháy rừng cũng đủ khiến cho con người hoảng loạn, sợ hãi. Bên cạnh thác sông Đà là cả một "bầu trời đá". Mỗi hòn lại mang một dáng vẻ khác nhau nhưng mặt hòn nào cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm, méo mó". Sông Đà đã giao nhiệm vụ cho từng hòn để bày ra "thạch trận", gây khó khăn, nguy hiểm cho người lái đò. Có những ba vòng "trùng vi thạch trận" để quyết chiến với người lái đò. Vòng thứ nhất, sông Đà mở ra "năm cửa trận" nhưng có những bốn "cửa tử" và chỉ có một "cửa sinh" nằm ở phía tả ngạn. Vòng thứ hai, dòng sông lại "tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, va cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn". Vòng thứ ba là vòng khó qua nhất, "ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả", "luồng sống…lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác". Cả ba vòng vây đều cực kì nguy khốn, quyết đưa người và thuyền xuống dưới mặt sông.
Thế nhưng, sau khi vượt qua được quãng sông đầy trắc trở, hiểm nguy, dòng sông lại vặn mình trở nên dịu dàng, nên thơ hơn. Từ trên cao nhìn xuống, sông Đà được Nguyễn Tuân ví như áng tóc dài trữ tình, để cho những làn khói mù và hoa gạo, hoa ban nở tô điểm. Phép nhân hóa, liên tưởng này khiến cho dòng sông lập tức trở nên quen thuộc, mượt mà như mái tóc người con gái xuân thì. Màu nước sông Đà cũng biến đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông trong và xanh màu ngọc bích. Sắc xanh này khác hẳn với những màu xanh canh hến của những dòng sông bạn bè. Sang thu, dòng sông chuyển đỏ. Màu đỏ như "da mặt một người bầm đi vì rượu bữa" vì phù sa mà tạo thành. Nét đặc biệt đó khiến sông Đà trở nên đa sắc hơn trong mắt văn nhân. Nguyễn Tuân cũng kể lại những chuyến đi rừng lâu ngày, thèm chỗ thoáng, vô tình bắt gặp sông Đà mà vui sướng. Nỗi niềm ấy khiến ông nhìn sông Đà như một cố nhân. Dòng sông lúc này đã lung linh bởi ánh nắng mặt trời chiếu vào, loang loáng, lấp lánh nay lại càng sáng lên rực rỡ vì những mong mỏi của riêng tác giả. Hai bên bờ sông Đà thì lặng lờ như ngàn đời nay vẫn vậy. Cảnh vật vui tươi không một bóng người khiến cho "bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Ở đó có nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, có đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh thẫm đẫm sương đêm. Khung cảnh thật yên bình, thơ mộng. Vẻ trữ tình này còn được tiếp diễn như câu thơ của Tản Đà: "Sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".
Để miêu tả được một dòng sông có hai tính cách đối ngược, khác biệt, Nguyễn Tuân đã sử dụng giọng văn linh hoạt, vận dụng sự hiểu biết của mình trong nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo ra những liên tưởng, câu văn độc đáo, khác biệt. Giọng văn khi miêu tả sông Đà hung bạo thì dồn dập, sử dụng nhiều tính từ, động từ mạnh. Thế nhưng khi nói về dòng sông ở nét tính cách trữ tình, tác giả lại sử dụng những câu văn dài, nhiều liên tưởng, thiên về tự sự hơn.
Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang viết tài hoa, tuyệt mĩ về dòng sông Đà quen thuộc. Chất "vàng mười" trong bài kí không chỉ có ở ông lái đò mà còn được thể hiện ở dòng sông đa sắc: dữ dội, hung bạo đến mức muốn nuốt chửng tất cả thuyền bè qua lại nhưng cũng dịu dàng, trữ tình, lung linh như khu vườn cổ tích. Qua đó, độc giả lại càng thấy rõ hơn lòng yêu mến mà tác giả dành cho thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ.
------------------ Hết ------------------
https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-hinh-anh-con-song-da-trong-tuy-but-nguoi-lai-do-song-da-42399n.aspx
Qua bài văn mẫu Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà, mong rằng em đã có cái nhìn rõ nét, toàn diện hơn về dòng sông này. Ngoài đề văn yêu cầu phân tích Phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo, trữ tình ở trên, để ôn tập, đạt kết quả cao trong chương trình Ngữ văn lớp 12, các em học sinh cần tham khảo các đề văn phân tích, bình giảng các bài văn phổ biến như Cảm nhận bài thơ Đàn ghi-ta của Lor-ca, phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, Cảm nhận về bài thơ Đất nước, phân tích bài thơ Tây Tiến,...