Phân tích Giá trị hiện thực truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

"Vợ chồng A Phủ" là một tác phẩm được lấy chất liệu từ cuộc sống của đồng bào thời kì chế độ phong kiến miền núi vẫn còn thống trị, người dân có nhiều nỗi khổ cực. Để tìm hiểu thêm về điều đó, mời em tham khảo Phân tích Giá trị hiện thực truyện ngắn Vợ chồng A Phủ để có thể làm bài phân tích truyện Vợ chồng A Phủ hay

Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ.

phan tich gia tri hien thuc truyen ngan vo chong a phu

Bài văn mẫu Phân tích Giá trị hiện thực truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

Nội dung bài viết:
I. Dàn ý.
II. Văn mẫu.
  1. Bài mẫu số 1.
  2. Bài mẫu số 2.

 

I. Dàn ý Giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ ngắn nhất

1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Tô Hoài và tác phẩm "Vợ chồng A Phủ".
- Giới thiệu về giá trị hiện thực trong tác phẩm:
+ Nói lên hiện thực cuộc sống bị áp bức, bóc lột của những người dân miền núi Tây Bắc.
+ Tố cáo chế độ phong kiến miền núi đã đẩy con người vào cuộc sống khốn khổ, lầm than. 
2. Thân bài:
a) Hiện thực cuộc sống bị áp bức, bóc lột của những người dân miền núi Tây Bắc:
- Những nhân vật trong truyện như Mị, bố Mị, A Phủ đều bị bóc lột nặng nề:
* Nhân vật Mị: 
- Đang có cuộc sống hạnh phúc, yên vui, tự do bên gia đình, sau một đêm bị bắt và bị cúng trình ma đã trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra -> Cuộc hôn nhân ép buộc, không tình yêu. 
- Không chấp nhận được sự thật, muốn tìm đến cái chết nhưng không được vì thương cha già còn phải trả nợ -> Cuộc sống chán chường, đau khổ khiến con người muốn tự vẫn -> Những món nợ nặng lãi đến vô lí, đày đọa con người, đẩy họ đến bước đường cùng, muốn chết đi nhưng không được.
- Dần dần, cảm xúc của Mị bị chai lì đi, cô không còn bất kì cảm xúc, khao khát nào nữa, mọi người chỉ trông thấy cô trong bộ dạng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.
- Vì không có tình yêu nên A Sử cũng thường đánh đập cô tàn nhẫn.
-> Cuộc sống trong nhà thống lí Pá Tra không khác gì địa ngục trần gian. Tuy mang tiếng là con dâu nhưng Mị phải làm việc cả năm cả tháng chẳng bao giờ nghỉ tay. Cô như một nô lệ trong ngôi nhà ấy, không có được tự do, không được hạnh phúc. 
* Nhân vật cha của Mị:
- Vì nghèo khó nên vay bạc của thống lí để cưới vợ, mỗi năm trả cho nhà thống lí một nương ngô.
- Đến khi vợ mất, con gái đã lớn vẫn chưa trả hết nợ -> Nhà Pá Tra bắt con gái để trừ nợ. 
=> Món nặng lãi lớn đến vô lí -> Sự bóc lột của nhà giàu -> Người giàu lại càng giàu, người nghèo lại càng nghèo khó hơn. 
* Nhân vật A Phủ:
- Vì đánh nhau với A Sử mà bị bắt trói, bị đánh đập và phạt vạ đến một trăm bạc trắng.
- Phải làm giàu cho nhà thống lí để trừ nợ, không trả hết thì đời con, đời cháu đều phải ở lại làm lụng để trả nợ.
- Chỉ vì làm để hổ ăn mất một con bò mà bị trói vào cột và bỏ mặc cho đến chết.
=> Sự tráo trợn, độc ác, tàn bạo của bọn thống trị miền núi. 
b) Tố cáo chế độ phong kiến miền núi đã đẩy con người vào cuộc sống khốn khổ, lầm than. 
- Những món nợ nặng lãi đến mức dùng cả đời người cũng không trả nổi. 
- Một phiên xử kiện mà chỉ thấy người tham dự hút thuốc phiện, ăn uống rồi lại hút thuốc phiện.
- Bắt con người làm việc quanh năm suốt tháng, không có lúc nào ngơi nghỉ nhưng vẫn không tha cho họ.
- Không cho con người có được sự tự do, được thực hiện quyền và khát vọng của mình: A Sử vì ngăn không cho Mị đi chơi nên đã trói đứng Mị vào cột. 
3. Kết bài:
- Khái quát lại về giá trị hiện thực của tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" 
 

II. Bài mẫu Giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ngắn gọn:

 

1. Bài mẫu Giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ hay nhất số 1

Các tác phẩm văn học muốn có đời sống riêng đều phải mang những giá trị của riêng mình. Bởi vậy, với mỗi một đề tài, các nhà văn đều có những cách khai thác độc đáo để đưa ra cho người đọc những khía cạnh khác nhau của cuộc sống. "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài là một truyện ngắn có giá trị hiện thực sâu sắc. Tác phẩm đã cho ta thấy được cuộc sống của người dân miền núi bị chế độ thống lí và những hủ tục phong kiến bóc lột, giam hãm, khiến họ mất đi tự do. 

Truyện được nhà văn Tô Hoài viết trong chiến dịch cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc. Vậy nên, ông đã lấy bối cảnh miền núi Tây Bắc hùng vĩ để làm nền ca ngợi những con người dân tộc miền núi tuy có cuộc sống đầy khó khăn nhưng cũng đã biết vươn mình tự giải thoát bản thân, tìm đến hạnh phúc. Những nhân vật trong truyện như Mị, A Phủ, bố Mị đều bị bóc lột nặng nề bởi gia đình thống lí Pá Tra - kẻ đại diện cho cái ác, cho chế độ phong kiến miền núi thời kì đó.

Mị đang ở độ tuổi xinh đẹp nhất của người con gái. Cô có cuộc sống hạnh phúc, yên vui, tự do bên những người thân yêu. Tuy nghèo khó nhưng Mị rất chăm chỉ, cô đã xin bố cho mình làm nương ngô để trả nợ cho gia đình. Thế nhưng, chỉ sau một đêm bị bắt và bị mang đi cúng trình ma đã trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Người dân tộc miền núi có một tục lệ, đó là khi có người mới vào nhà đều phải cúng trình ma, để con ma nhận mặt người đó. Người đó sẽ mãi thành người trong nhà, không thể chạy trốn hay bỏ đi đâu được. Chính vì vậy, Mị đã bị buộc chặt vào gia đình thống lí mà không thể phản kháng. Không chấp nhận được sự thật, cô muốn tìm đến cái chết. Thế nhưng vì thương người bố đã lớn tuổi, Mị không tự vẫn nữa, cô đành phải ở lại thống lí. Từ đó, ta thấy cuộc sống hiện thực vô cùng chán chường, đau khổ khiến con người muốn tự vẫn cũng không được. Sống trong một cuộc hôn nhân không tình yêu, Mị thường xuyên bị A Sử coi thường, đánh đập và đối xử tàn nhẫn. Thậm chí, hắn ta còn không cho cô thực hiện quyền tự do của con người. A Sử không cho Mị đi chơi. Khi thấy Mị sửa soạn ra ngoài, hắn liền trói đứng cô vào cột nhà rồi bỏ ra ngoài. Đau đớn, tủi nhục nhưng Mị chẳng làm gì được. Dần dần, cảm xúc của Mị bị chai lì đi, cô không còn bất kì cảm xúc, khao khát nào nữa, mọi người chỉ trông thấy cô trong bộ dạng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Không những thế, khi làm dâu cho nhà thống lí, cô còn bị bóc lột sức lao động một cách dã man. Lúc nào người ta cũng thấy Mị làm việc, "quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối". Làm nhiều đến mức cô cảm thấy cuộc sống của mình còn chẳng bằng con trâu con ngựa. Chúng còn có lúc được đứng gãi chân, nhai cỏ còn cô phải làm việc cả đêm cả ngày. Cuộc sống trong nhà thống lí Pá Tra không khác gì địa ngục trần gian. Tuy mang tiếng là con dâu nhưng Mị phải làm việc cả năm cả tháng chẳng bao giờ nghỉ tay. Cô như một nô lệ trong ngôi nhà ấy, không có được tự do, không được hạnh phúc. 

Ngoài Mị thì bố của Mị cũng là nạn nhân của chế độ thực dân nửa phong kiến tàn ác. Vì nhà nghèo nên ông đã vay bạc của thống lí để cưới vợ. Mỗi năm, hai vợ chồng làm lụng chăm chỉ để trả cho nhà thống lí một nương ngô. Thế nhưng bố Mị đã trả cả đời, trả đến khi vợ mất, con gái đã lớn mà vẫn chưa hết nợ. Món lãi cắt cổ chính là thứ đã đeo bám cuộc đời ông, giờ lại đầy đọa cả con gái ông. Chúng bắt Mị về làm dâu để trừ nợ. Sự bóc lột ấy khiến cho người giàu ngày càng giàu hơn còn người nghèo thì vẫn cứ mãi nghèo khó, khổ đau. 

Ngoài Mị, truyện cũng có một nhân vật trung tâm khác là A Phủ. Đáng lẽ, A Phủ là một chàng thanh niên tự do, tuy nghèo khó nhưng anh vẫn rất chăm chỉ làm lụng để nuôi thân. Thế nhưng, chỉ vì đánh nhau với con quan mà A Phủ bị bắt trói, bị đánh đập dã man mấy ngày liền. Hơn thế nữa, anh còn bị phạt vạ đến một trăm bạc trắng, bị bắt đến ở cho nhà thống lí để trừ nợ, không trả hết thì đời con, đời cháu đều phải ở lại làm lụng để trả nợ. Cuộc đời anh từ đây cũng đã bị Pá Tra cột chặt với kiếp nô lệ. Anh cũng phải làm lụng cả ngày, toàn những công việc nặng nhọc, nguy hiểm "Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa". Thậm chí, chỉ vì để hổ ăn mất  một con bò mà A Phủ bị trói vào cột và bỏ mặc cho đến chết.

Qua cuộc đời những nhân vật như Mị và bố, A Phủ, người đọc đã phần nào hiểu được hiện thực cuộc sống đầy đau khổ, vất vả, tủi nhục mà những người dân miền núi khi đó phải chịu đựng. Từ đó, nhà văn Tô Hoài đã lên án chế độ phong kiến đã đẩy con người vào cuộc sống khốn khổ, lầm than. Những người dân nghèo khó đã phải chịu những món nợ nặng lãi đến mức dùng cả đời cũng không trả nổi. Người giàu thì thản nhiên vơ vét, bóc lột của người nghèo. Cho dù đã bắt con người làm việc quanh năm suốt tháng, không có lúc nào ngơi nghỉ nhưng chúng vẫn thấy chưa đủ. Chúng còn bắt người, đánh đập, đối xử tàn nhẫn với đồng bào. Chúng không cho người dân lương thiện có tự do, được thực hiện quyền và khát vọng của mình như Mị không được đi chơi trong đêm tình mùa xuân. Không những thế, ta còn thấy sự xa hoa, lãng phí của chế độ phong kiến trong khi nhân dân còn nhiều nỗi vất vả. Một phiên xử kiện mà chỉ thấy người tham dự ngồi, nằm hút thuốc phiện, ăn rồi lại hút thuốc phiện, khói thuốc bay mù mịt khắp cả gian phòng. 

Cuộc đời khổ cực của những người dân miền núi Tây bắc mà đại diện là Mị, A Phủ, bố Mị đã cho ta thấy sự bóc lột, giam hãm con người một cách vô lí của chế độ phong kiến mà đại diện chính là thống lí Pá Tra. Giá trị hiện thực hiện lên làm người đọc thấy đau đớn, căm tức cho những người dân khi đó.

 - - - - - - - - - - - - - - - - - - -  HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Tuy "Vợ chồng A Phủ" đã được sáng tác từ lâu nhưng mỗi lần nhắc lại, ta không khỏi xót xa trước hoàn cảnh cực khổ của những người dân vùng núi. Mời em tham khảo thêm các bài mẫu khác trên Taimienphi.vn để hiểu thêm về tác phẩm như Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ chồng A Phủ, Tấm lòng của nhà văn Tô Hoài với đồng bào miền núi qua Vợ chồng A Phủ, Chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Ý nghĩa chi tiết tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ,...

 

 

2. Bài văn mẫu Phân tích Giá trị hiện thực truyện ngắn Vợ chồng A Phủ siêu hay số 2

Tô Hoài là một trong những cây bút lão luyện của làng văn học Việt Nam với sự nghiệp văn chương đồ sộ bao gồm nhiều thể loại phong phú, độc đáo. Được mệnh danh là “Nhà văn của thiếu nhi”, giọng văn của Tô Hoài luôn mang phong vị tự nhiên, hồn hậu, ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, dễ cảm. Tác phẩm nổi bật nhất của ông sau Cách mạng Tháng 8 phải kể đến “Vợ chồng A Phủ”, một kiệt tác văn chương được thai nghén và hoàn thiện trong chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc của tác giả. Với khả năng xây dựng hình tượng nhân vật điển hình cùng lối viết chân thực, “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm mang giá trị hiện thực sâu sắc, đả kích và lên án sự bất công trong xã hội phân chia giai tầng đã vùi dập con người đến tận cùng khổ đau, đồng thời bêu riếu bọn cường hào, thống lý tàn ác, phơi bày những thế lực đen tối tồn tại ở khu vực vùng núi phía Bắc trước Cách mạng.

Giá trị hiện thực là những điều diễn ra trong cuộc sống, được tác giả khéo léo lồng ghép vào tác phẩm tạo nên ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kì, một chế độ trên nhiều phương diện, góc nhìn khác nhau. Đây là yếu tố cốt lõi của một tác phẩm văn học, nhất là văn học hiện thực, là bức họa cuộc sống được sàng lọc một cách kĩ lưỡng nhằm nêu bật lên được những đặc điểm điển hình của một thời kì, giai cấp. Phần lớn giá trị hiện thực của các tác phẩm văn học đều mang tiếng nói chung của đại đa số quần chúng đương thời, là bản cáo trạng đối với những thói hư tật xấu và là tiếng lòng thổn thức của những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội.

Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã tự mình thâm nhập vào cuộc sống của những người lao động Tây Bắc để có thể thấm nhuần được suy nghĩ, cảm nhận xuất phát từ tấm lòng thiện lương của con người nơi đây. Từ đó, ông thấu hiểu được nỗi đau đớn, tủi cực đang ngày đêm day dứt, trăn trở, thông qua ngòi bút và vốn hiểu biết, Tô Hoài đã xây dựng một cốt truyện cùng các tuyến nhân vật Mị, A Phủ,… như một bức tranh sự thật, nói lên cuộc sống bi kịch của nhân dân lao động cần cù, chăm chỉ, bóc trần bộ mặt hèn ác, xấu xa của những kẻ có chức quyền trong xã hội.

Đoạn trích kể về số phận nghiệt ngã của nhân vật Mị, một cô gái hiền lành, chăm chỉ nhưng không may lại mang thân phận “món đồ gạt nợ”, bị gả vào nhà thống lý Pá Tra do món nợ truyền đời từ cha mẹ để lại. Tại đây, cô phải làm việc quần quật, bị bòn rút hết tất cả sự sống và sức phản kháng, tưởng chừng như không có con đường giải thoát nào. Rồi cô gặp được A Phủ, một nạn nhân của cha con thống lý Pá Tra. Chứng kiến số phận khổ đau giống mình, Mị như được tiếp thêm nguồn sức mạnh, dám đứng lên chống lại số phận, cùng A Phủ bỏ trốn, tìm đến một cuộc sống, nơi mà họ có thể sống như một con người thực thụ.

Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” được lột tả qua cuộc sống bi kịch của người lao động vùng Tây Bắc, điển hình là hai hình tượng nhân vật Mị và A Phủ. Giới thiệu nhân vật Mị, Tô Hoài không chọn cách kể về tên tuổi, quê quán, hay thậm chí một câu tả dáng hình cũng chẳng được xuất hiện, chỉ vỏn vẹn: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói: nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giầu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý.” Đoạn văn mở đầu để lại cho người đọc một nỗi ám ảnh về kiếp người mòn, một số phận đau thương dai dẳng không dứt. Nét mặt buồn rười rượi của Mị chính là lời tố cáo chân thực nhất về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè nặng lên cả một kiếp người, không chỉ khiến độc giả đau xót, mà còn khơi gợi sự căm tức, phẫn nộ, cảm thông với nhân vật.

Cuộc sống giữa địa ngục trần gian của Mị được coi là điển hình, khái quát toàn bộ những khó khăn, khổ đau mà nhân dân lao động khu vực miền núi phía Bắc trước Cách mạng. Tô Hoài mượn hình ảnh của Mị để nêu bật được lên chất hiện thực về cuộc đời đắng cay, tủi nhục của những người dân hiền lành, chất phác phải chịu đựng. Bị bắt về làm dâu cho nhà giàu, cuộc đời của Mị từ một cô gái xinh đẹp, hay lam hay làm thành một “con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, “mặt buồn rười rượi” lầm lũi, không nói năng gì. Chúng coi cô là công cụ lao động để làm giàu, “mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Số phận của Mị thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lý. Hơn nữa, cô Mị còn bị bóc lột tinh thần đến mức mất đi sức phản kháng vốn tiềm tàng trong những số phận bất hạnh. Cô bị trói, bị đánh tưởng đến chết trong đêm Tết ở Hồng Ngài. Từ một cô gái dám uống rượu để quên đi sầu khổ, dám chuẩn bị đi chơi trong đêm tình mùa xuân, giờ đây chỉ còn lại là cái xác không hồn, quanh năm làm lụng, không bao giờ dám nghĩ đến việc bỏ trốn hay tìm cách thoát ra khỏi số phận bi phẫn của mình. Để nói về cuộc đời của Mị, Tô Hoài viết: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử. ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.”. Người ta thấy trào lên những cảm thương sâu sắc ở nhân vật, rõ ràng là một người con gái đang tuổi xuân phơi phới như thế, nhưng lại chỉ quẩn quanh suy nghĩ mình là con trâu, con ngựa, câm lặng cam chịu làm bạn với cái khổ đau. Còn đâu cô Mị dám trốn nhà Pá Tra về gặp bố mẹ, còn đâu những tia hi vọng nhen nhóm, ăn lá ngón để giải thoát cho số phận, và còn đâu những cuộc chơi đêm tình mùa xuân sôi động, náo nhiệt, những câu hát văng vẳng tìm bạn “tao không có con gái con trai, tao đi tìm người yêu”. Cuộc sống của Mị gói gọn trong bốn bức tường, chỉ chừa ra cái ô cửa sổ nhỏ bằng bàn tay. Tưởng như tuổi xuân và cả cuộc đời Mị sẽ mãi mãi ở ngoài bốn bức tường ấy, chăng khác nào bị giam lỏng cả một đời người ở chốn ngục tù trần gian.

Một trong những chi tiết độc đáo nhất tác phẩm mang tính hiện thực sâu sắc là cảnh cô Mị bị trói cả đêm ở cột nhà khi A Sử nhìn thấy Mị đang chuẩn bị đi chơi. Đặt vào bối cảnh thực tế, Mị là một cô gái trẻ trung, dồi dào sức sống. Niềm khao khát được đi tìm bạn bè, đi chơi trong đêm tình mùa xuân là lẽ hiển nhiên, nhưng, tất cả những ia hi vọng đó của Mị đã lập tức bị dập tắt khi cô bị chính người chồng của mình trói đứng vào cột nhà bằng sợi mây một cách tàn bạo. Cái đau khổ lên đến tột cùng, ngay đến những ước muốn nhỏ nhoi và đơn giản nhất, Mị cũng không thể thực hiện được. “Mỵ không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mỵ, lấy thắt lưng trói hai tay Mỵ. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mỵ vào cột nhà. Tóc Mỵ xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.”, “Cả đêm Mỵ phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức”, “Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau đứt từng mảnh thịt.”. Cái đau thể xác có thể diễn tả, nhưng nỗi đau tinh thần như từng vết roi hằn lên tâm hồn Mị. Cô gái tội nghiệp đến đáng thương ấy, chỉ vì muốn đi chơi như bao người khác mà bị hành hạ dã man, bị trói đứng trong đêm tối cô quạnh. Người đọc bỗng đặt ra câu hỏi rằng, liệu còn biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh như thế nữa vẫn còn đang tồn tại, biết bao cô con gái sa chân vào làm dâu nhà quan to, tưởng được sống hạnh phúc, đủ đầy, cuối cùng lại trở thành kiếp trâu ngựa tủi hờn, nhục nhã. Tô Hoài không trực tiếp lên án xã hội cổ hủ lạc hậu, bất nhân, coi người như cỏ rác, nhưng thông qua hình ảnh của Mị, mọi đường nét thực tại đều được khắc họa một cách chân thực, rõ ràng. Hiện thực về cuộc sống lao động khổ đau, hiện thực về thân phận mòn mỏi, hiện thực về cái ác đang ngày ngày hiện hữu, tất cả đều được tác giả khai thác và phơi bày trước ánh sáng.

Xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ, tác giả muốn phản ánh hiện thực về cuộc sống của người dân lao động tuy xuất thân thấp kém, cuộc đời lam lũ vất vả nhưng lại chịu thương chịu khó, sức khỏe dồi dào, không may số phận lại rơi vào tay cha con nhà thống lý độc ác. Cái khổ đau của A Phủ được thể hiện qua những trắc trở trên đường đời, “Bố mẹ đẻ A Phủ ở Hắng Bìa. Năm xưa, làng Hắng Bìa phải một trận bệnh đậu mùa, nhiều trẻ con, cả người lớn chết, có nơi chết cả nhà. Còn sót lại một mình A Phủ. Có người làng đói bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười một tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác.”, khi anh bị trói mang về nhà Pá Tra, bị đánh đập tàn bạo bởi bọn trai làng. Bọn chúng bắt sống anh về như bắt một con vật, đánh đập anh tàn bạo đến nỗi “môi và đuôi mắt giập chảy máu”. Đỉnh điểm là khi anh làm mất một con bò, Pá Tra trói đứng anh vào cột, chờ đến khi có người mang hổ về mới tha cho anh. Bị trói đứng mấy ngày trời, không ăn, không uống, chịu rét, A Phủ kiệt sức tưởng như chết đi đến nơi. Từ hình ảnh một chàng trai khỏe mạnh, tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, A Phủ trở thành con trâu cày không công cho nhà thống lý. Sống trong xã hội thối nát, mục ruỗng ấy, con người không còn có quyền sống như một con người, tất cả đều bị phụ thuộc vào kẻ có quyền, có tiền. Sự thật về số phận của những người dân lao động khu vực Tây Bắc trước Cách mạng Tháng tám là chuỗi những ngày tháng đau thương, nơi con người bị vắt kiệt sức lao động, nơi cái ác ngự trị và tính mạng người dân chỉ giống như con vật nuôi trong nhà.

 Mị và A Phủ là hiện thân của kiếp đời nô lệ dưới chế độ phong kiến, được Tô Hoài xây dựng từ những chất liệu hiện thực gần gũi nhất, thẳng thắn nhất. Qua hai nhân vật, tác giả gián tiếp khắc họa cuộc sống và số phận của người dân lao động trước Cách mạng, là tiếng nói mang tính tố cáo, lên án những kẻ lợi dụng chức quyền đã vùi dập con người, đứng trên lập trường của nhân dân, bảo vệ người dân lao động, tố cáo tội ác của quân thù và bọn bất lương.

Giá trị hiện thực còn được tác giá khai thác sắc bén nhằm phơi bày những kẻ lợi dụng chức quyền, những thế lực đen tối ở miền núi phía Bắc trước Cách mạng nhằm vùi dập, chà đạp con người.  Hình tượng cha con nhà thống lý Pá Tra, bọn xéo phải, thống quán chính là hiện thân của tội ác áp bức, bóc lột, coi số phận con người rẻ mạt như trâu ngữa, mặc sức bóc lột, hành hạ. Đặt trong hoàn cảnh đặc trưng của khu vực miền núi xa xôi, hẻo lánh, dân trí thấp, tư tưởng cổ hủ, lạc hậu và những hủ tục truyền đời, thực dân Pháp đã sử dụng bọn quan lại như tay sai nhằm kìm kẹp nhân dân lao động dưới ách thống trị, bóc lột. Chúng tiếp tay cho chính dân ta hãm hại lẫn nhau vì miếng ăn, vì quyền lực, kẻ có quyền được mặc sức nhũng nhiễu, thu bạc thu vàng, lại được cho muối, cho thuốc phiện về bán nhằm tư lợi cá nhân. Chính điều này đã làm cho mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội ta ngày một rõ ràng, nhóm lên lòng căm thù đối với bọn quan liêu đốn mạt, bê tha. Một trong những đoạn văn miêu tả chân thực nhất của tác phẩm phải kể đến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh phạt vạ. Bị chịu đòn từ các trai làng, anh chỉ biết đứng im, không dám nhúc nhích hay chống trả vì mang tội đánh con trai thống lý. Cái tàn ác thể hiện ở chỗ, tên A Sử gây sự đánh nhau, nhưng khi bị đánh lại được bênh vực, được cha đi tìm kẻ đã đánh con trai mình về hành hạ, trong khi A Phủ, vì không có cha mẹ, vì thân phận hèn kém lại phải chịu đòn, chịu phạt. “A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, không được dự tiệc hút ấy.”, “A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên thống lý rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá... Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu. Người đánh, người quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.”, “A Phủ lê hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.”. Tất cả những chi tiết ấy thể hiện sự tàn bạo, coi người như rơm rác của bọn quan lại, dã man xuống tay đánh đập trong khi bọn chúng thảnh thơi hút thuốc, chửi bới, thóa mạ. Thật không thể tưởng tượng được lại tồn tại một xã hội thối rữa, nơi nhân phẩm con người không bằng một con vật, kẻ phạm tội lại là quan tòa, người vô tội lại trở thành con nợ mạt kiếp, bị đánh đập tàn ác. Phải chăng, đây chính là những góc khuất đã được thế lực đen tối dung túng để bọn quan liêu mặc sức tung hoành, nhũng nhiễu, bóc lột dân chúng, bợ đỡ bọn Tây nhằm trục lợi, vơ vét của cải.

Tội ác của cha con thống lý Pá Tra thật không kể xiết, chúng không thương xót một ai, không chừa cả những số phận yếu đuối, không có khả năng chống cự. Thân phận gạt nợ của Mị cũng bắt nguồn từ món nợ giữa bố của thống lý Pá Tra và bố mẹ Mị “Ngày xưa bố Mỵ lấy mẹ Mỵ không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của thống lý Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.” món nợ truyền đời từ bố mẹ sang con cháu đã cho thấy sự bóc lột của kẻ nắm quyền, không một sự thương xót với người già, trẻ nhỏ hay cả những gia đình bần hàn, cơ cực. Cái duy nhất bọn chúng quan tâm là lợi ích, tiền của. Dường như, tình người không hề tồn tại với cha con thống lý Pá Tra. Cuộc đời Mị từ lúc bị lừa bắt về làm dâu, sống lặng lẽ “như một con rùa nuôi trong xó cửa”, làm việc quần quật “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì nhặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp…”, đến khi bị hành hạ cực khổ, bị trói, bị đánh,… giống như một bản án buộc tội thế lực quan lại độc ác, vô nhân tính, là bản cáo trạng chân thực nhất về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè nặng lên cả một kiếp người, không chỉ khiến độc giả đau xót, mà còn khơi gợi sự căm tức, phẫn nộ, cảm thông với nhân vật.

Tô Hoài không phê phán một cách trực tiếp, nhưng chính từ những hành động của thống lý Pá Tra đối với A Phủ và Mị, bị đẩy vào số phận con sâu cái kiến, người đọc đã nhận ra được bộ mặt bóc lột, lên án gay gắt chế độ quan lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến khu vực miền núi Tây Bắc đã khiến biết bao con người khỏe mạnh, chịu thương chịu khó trở thành tay sai cho chế độ bóc lột bạo tàn. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phơi bày được bộ mặt xấu xa của chế độ phong kiến lỗi thời, đốn mạt, nơi những kẻ ác nghiệt nắm mọi quyền sinh quyền sát trong tay, nơi kiếp người bị rẻ rúng, không bằng con trâu, con ngựa.

Tô Hoài đã xuất sắc trong việc tái hiện lại bức tranh hiện thực về số phận những con người khốn khổ nơi vùng núi cao, đồng thời lên án, vạch mặt những thế lực đen tối đã vùi dập, chà đạp con người. Bằng nghệ thuật miêu tả đặc sắc, xây dựng tâm lý nhân vật qua hành động, cử chỉ và sự tiến bộ trong suy nghĩ của nhân vật, tác giả không chỉ khiến cho người đọc hình dung một cách rõ ràng về những góc khuất trong xã hội xưa mà còn thể hiện sự thương cảm, xót xa với những người dân lao động vô tội. Xét cho cùng, văn học chính là hiện thực được phản ánh một cách chắt lọc, mục đích của văn học là khơi gợi sự đồng cảm nơi độc giả. Trên phương diện ấy, Tô Hoài đã hoàn thành một cách trọn vẹn với tư cách một người quan sát, một nhà truyền đạt, là sợi dây kết nối giữa bạn đọc và những con người họ chưa từng một lần gặp gỡ.

Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” là hiện thực cuộc sống của những người dân Tây Bắc, cần cù, chăm chỉ, chân phương nhưng bất hạnh, khổ cực. Qua hai hình tượng nhân vật điển hình, tác giả đã khái quát toàn bộ không gian xã hội thực dân nửa phong kiến nơi vùng cao, đồng thời lên án mạnh mẽ, phơi bày bộ mặt tàn bạo và các thế lực đen tối đã tồn tại và chèn ép con người đến bước đường cùng. Qua tác phẩm, Tô Hoài cũng gửi gắm sự nâng niu, trân trọng đến nhân vật của mình hay chính là những người dân vùng núi phía Bắc, tìm kiếm sự lay động trong lòng độc giả khi chứng kiến những khó khăn, gian khổ mà nhân vật phải trải qua.

--------------- HẾT ---------------

https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-gia-tri-hien-thuc-truyen-ngan-vo-chong-a-phu-42434n.aspx
Trên đây là bài hướng dẫn cách phân tích Giá trị hiện thực truyện ngắn Vợ chồng A Phủ hay, đặc sắc mà Taimienphi.vn biên tập, tổng hợp được. Bên cạnh bài phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ ở trên, các em có thể tìm hiểu thêm danh sách các bài văn hay lớp 12, thường gặp trong đề thi THPT khác nhé.

Tác giả: Quỳnh Búp Bê     (4.3★- 4 đánh giá)  ĐG của bạn?

  

Bài viết liên quan

Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt
Diễn biến tâm trạng của Mị trong "đêm tình mùa xuân" trong Vợ chồng A Phủ siêu hay của học sinh giỏi
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ chồng A Phủ
Chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hay nhất
Phân tích hành động cởi trói của Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Từ khoá liên quan:

phan tich gia tri hien thuc truyen ngan vo chong a phu

, phan tich gia tri hien thuc cua vo chong a phu, phan tich gia tri hien thuc trong Vo chong A Phu,

SOFT LIÊN QUAN

Tin Mới