Bên cạnh một Vũ Như Tô tài hoa nhưng quá đắm chìm trong lí tưởng riêng của mình, Nguyễn Huy Tưởng còn xây dựng lên nhân vật Đan Thiềm, một cung nữ có tấm lòng nhân hậu và biết quý trọng cái tài, cái đẹp, vậy em cảm nhận về nhân vật Đan Thiềm qua hồi 5 vở kịch Vũ Như Tô như thế nào, cùng viết bài văn bày tỏ cảm nghĩ của bản thân về nhân vật đặc biệt này.
2 Bài văn mẫu Cảm nhận về nhân vật Đan Thiềm qua hồi 5 vở kịch Vũ Như Tô
Cảm nhận về nhân vật Đan Thiềm qua hồi 5 vở kịch Vũ Như Tô, mẫu số 1:
I. Dàn bài
a. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sinh ra trong một gia đình nho giáo ở làng Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội.
Ông viết nhiều thể loại: truyện ký, kịch với nhiều để tài: từ đề tài lịch sử, Thăng Long - Hà Nội, chiến tranh vệ quốc đến đề tài dành cho thiếu nhi. Thể loại nào, đề tài nào của Nguyễn Huy Tưởng cũng mang giá trị vượt thời gian.
Tác phẩm "Vũ Như Tô" là vở bi kịch lịch sử năm hồi về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516-1517 dưới triều Lê Tương Dực.
Tác phẩm được sáng tác vào mùa hè 1941
b. Thân bài
Khái quát chung: Đan Thiềm tuy là nhân vật phụ nhưng góp phần tô đậm nhân vật Vũ Như Tô và làm rõ tư tưởng chủ đạo của tác phẩm
Đây là người cung nữ say mê cái đẹp, trân trọng người tài, thấu hiểu lẽ đời nhưng gặp phải bi kịch.
Người cung nữ say mê cái đẹp và trân trọng người tài:
Đan Thiềm là người đã khích lệ Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài:
Vũ Như Tô là người nghệ sĩ có tài, có nhân cách kiê quyết không xây Cửu Trùng Đài bởi đó là chốn ăn chơi sa đọa của bọn vua chúa. Nhưng khao khát cái đệp mãnh liệt và được tiếp sức, khích lệ bởi Đan Thiềm nên càng cháy sáng và biến thành hành động
Cái đẹp mà Đan Thiềm tôn thờ là cái đẹp bề thế, muôn đời. Tình yêu cái đẹp của nàng xuất phát từ lòng tự hào, tự tôn của dân tộc.
Khí đám thợ thuyền phản loạn chính Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô bỏ chốn bởi lo cho tài của Vũ Nư Tô bị uổng
Hành động chạy hổn hển vào báo tin cho Vũ Như Tô, quỳ xuống xin bọn phản loạn đừng giết Vũ Như Tô gợi tinh thần hoảng loạn đau đớn của Đan Thiềm trước tình hình tính mạng của Vũ Như Tô đe dọa
Lời nói: Van lơn, khuyên nhủ, van nài
Giọng: Thúc bách Vũ Như Tô bỏ trốn để tài năng không bị mất
Hành động: xin chết thay cho Vũ Như Tô
Quý người tài, yêu cái đẹp hơn tính mạng mình
Đan Thiềm là người rất tỉnh táo, thấu hiểu lẽ đời , nhận rõ được tình thế
Khuyên Vũ Như Tô lợi dụng Lê Tương Dực để xây Cửu Trùng Đài
Khuyên Vũ Như Tô bỏ chốn đợi cơ hội khác bởi đại sự hỏng rồi
Chỉ ra nguyên nhân: nhân dân và quan lại trong triều ai ai cũng cho Vũ Như Tô là thủ phạm cho thấy Đan Thiềm là người thấu đáo về thời thế. Bức tường thâm cao của cung vua phủ chúa không bó hẹp được tầm nhìn sâu sắc về thời thế của người cung nữ này. nàng ứng xử linh hoạt, uyển chuyển
Đan thiềm gặp bi kịch vỡ mộng
Đan Thiềm là cung nữ bị ruồng bỏ, ngót 20 năm giam lỏng làm thị nữ hầu hạ cho vua và đám phi tần kém nàng về nhan sắc và tài năng, nàng còn bị khinh miệt
Nàng là một hồng nhan bạc mệnh nhưng bị kịch lớn nhất là nàng khổ lụy vì tài
Lo lắng tột độ cho cái tài của Vũ Như Tô
Van lo9nw khuyên Vũ Như Tô bỏ trốn.
Cái đẹp nàng tôn thờ, người tài nàng trân trọng có nguy cơ bị tiêu diệt
Chắp tay lạy Vũ Như Tô khi Vũ Như Tô bị dồn đến đường cùng
Xin quân khởi loạn tha cho Vũ Như Tô
Tất cả cho thấy Đan Thiềm là người cung nữ tha thiết yêu cái đẹp và cảm mến người tài nhưng nàng đã gặp bi kịch không kém phần đau đớn so với Vũ Như Tô. Đan Thiềm phải chứng kiến cái tài và cái đẹp bị hủy diệt. Yêu cái tài nhưng không bảo vệ được. Khích lệ cái tài, cái đẹp nhưng lại chứng kiến người tài bị giết
Tình cảm tác giả: Trân trọng, đồng cảm, xót xa, đồng mệnh
Nghệ thuật: Miêu tả diễn biến tâm trạng hết sức chân thực và xúc động
Ngôn ngữ giàu tính cá thể: tha thiết, khẩn nài, van xin, thất vọng kết hợp với hành động, cử chỉ, ngoại hình
c. Kết bài
Qua vở kịch ta thấy được Đan thiềm là một người phụ nữ yêu cái đẹp, quý trọng người tài
Là người có tấm lòng cao quý, tỉnh táo trong mọi trường hợp
Xem thêm các bài văn mẫu, soạn bài hay tác phẩm Vũ Như Tô trên Taimienphi.vn
- Phân tích tấn bi kịch Vũ Như Tô trong Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài
- So sánh cách nhìn nghệ thuật của hai nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa và Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
Cảm nhận về nhân vật Đan Thiềm qua hồi 5 vở kịch Vũ Như Tô, mẫu số 2:
Tác giả Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) xuất thân trong một gia đình nhà nho của đất Bắc Ninh xưa, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội. Từng gắn bó với phong trào cách mạng trong các tổ chức văn hoá văn nghệ do Đảng lãnh đạo từ rất sớm. Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch ử để xây dựng tác phẩm có quy mô lớn, dựng lên những bức tranh, những hình tượng hoành tráng về lịch sử bi hùng của dân tộc. Ông là một nhà viết kịch tài ba. Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa thâm trầm sâu sắc khi đặt ra những vấn đề có tầm triết lý.
"Vũ Như Tô" là vở kịch lịch sử có quy mô hoành tráng xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng và của nền kịch Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1941, dựa trên một sự kiện lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu Lê. Tác phẩm gồm 5 hồi. Đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" là hồi 5, hồi cuối của vở kịch. Trong đoạn trích được học gây ấn tượng sâu sắc nhất là nhân vật Vũ Như Tô.
Vở kịch "Vũ Như Tô" đã nêu lên một vấn đề lịch sử - xã hội để mọi người cùng suy nghĩ. Đó là chức năng, vai trò của người nghệ sĩ, và mục đích của nghệ thuật. Người nghệ sĩ đem tài năng phục vụ ai? Mọi công trình nghệ thuật đều vì ai? Đọc vở kịch "Vũ Như Tô", ta càng cảm hiểu và thấm thìa về những nội dung và ý nghĩa ấy. Ở đây, chuyện lịch sử, chuyện sân khấu cũng là chuyện đời chuyện hôm qua và cả chuyện hôm nay.
Xung đột kịch ở Hồi V chủ yếu xoay quanh giữa Đan Thiềm với Vũ Như Tô giữa Trịnh Duy Sản với Lê Tương Dực, Nguyễn Vũ, giữa Kim Phượng và cả cung nữ với Đan Thiềm, giữa Nguyễn Hoằng Dụ, quân khởi loạn, những người thợ xây Cửu Trùng Đài với Vũ Như Tô và Đan Thiềm.
Bối cảnh lịch sử được phản ánh trong vở kịch "Vũ Như Tô" là từ năm 1510 đến năm 1516 dưới triều vua Lê Tương Dực, "vua lợn " hoang dâm và xa hoa cực độ. Giặc giã nổi lên như ong. Thăng Long trở thành chiến địa. Lê Tương Dực giết vua Lê Uy Mục (vua quỷ) để giành ngôi báu. Trịnh Duy Sản giết Lê Tương Dực rồi đốt xác. Nguyễn Hoàng Dụ đốt phá kinh thành Thăng Long, bắt Vũ Như Tô là người xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực, đem chém ở ngoại thành. Trần Cao khởi loạn, cướp phá lung tung. Triều đình chia thành năm bè bảy mối, ai cũng chỉ chăm chắm một điều "được làm vua, thua làm giặc", dân bị "rán mỡ" vô cùng đau khổ điêu linh. Một câu ca được lưu truyền khắp làng quê, kẻ chợ thuở ấy:
"Trời làm một trận lăng nhăng,
Vua hóa ra thằng, thằng hóa ra vua".
Giữa thời buổi hỗn quân, hỗn quan ấy, có bao chuyện buồn nôn. "Vua quỷ" vừa bị giết thì "Vua lợn" đã ủn ỉn bò lên ngai vàng. Em giết anh, thái tử thông dâm với thứ phi của cha, nghịch thần nhan nhản trong triều, gian phu dâm phụ nhung nhúc trong hậu cung. Có kẻ đem lòng thương muốn cứu người mà gây mầm tai họa. Có bao kẻ ngu trung làm đau khổ dân lành. Đan Thiềm và Vũ Như Tô là những con người đáng thương hại, luẩn quẩn mãi trong vòng chữ tình và chữ danh cuối cùng bị bao thế lực căm phẫn, bị khinh bỉ rồi bị giết chết, thật đáng thương!
Đan Thiềm là một cung nữ có chút ít nhan sắc và lòng nhân hậu, biết quý trọng nhân tài. Nàng đã dành cho Vũ Như Tô bao tình cảm đặc biệt. Vũ Như Tô lúc đầu không muốn đem tài năng phục vụ tên hôn quan "tướng lợn" vì hắn xa xỉ và hoang dâm. Người nghệ sĩ này có thể bị giết, bị tru di. Trước tình cảnh đó, Đan Thiềm đã mách đường cho Vũ Như Tô chạy trốn, đã khuyên "không nên trái lệnh vua". Nhưng khi quân khởi loạn đốt phá kinh thành, lùng sục kẻ xây dựng Cửu Trùng Đài, cho đó là "thủ phạm" thì Đan Thiềm chạy hớt ha hớt hải, mặt cắt không còn hột máu đi tìm Vũ Như Tô. Đan Thiềm thiết tha van xin vị công trình sư tài ba: "Ông phải trốn đi. Ông phải trốn đi... trốn đi để chờ cơ hội khác. Đại sự hỏng rồi". Khi tiếng quân ầm ầm, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tù và, tiếng ngựa hí nổi lên, khi quân khởi loạn truy tìm "thủ phạm" để giết, để phá Cửu Trùng Đài, thi Đan Thiềm không hề lo đến tính mạng của mình mà chỉ lo Vũ Như Tô bị sát hại. Nàng đã hết lời van xin: "Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai tô điểm nữa". Lòng nhân ái và sự quý trọng nhân tài của Đan Thiềm thật đáng trọng. Nhưng cách suy nghĩ của người cung nữ này thì nông nổi, phiến diện, đáng thương. Có đúng là, nếu Vũ Như tô bị giết chết thì "nước ta không còn ai tô điểm nữa" không? Có đúng là "khi dân nổi lên, họ nông nổi vô cùng. Họ không phân biệt phải trái?".
Đan Thiềm có biết hay không biết, vua Lê Tương Dực đã ra sức vét thuế, đã "rán mỡ dân" xây dựng Cửu Trùng Đài để sống xa hoa, hưởng lạc giữa hàng trăm, hàng nghìn cung nữ. Đan Thiềm có biết hay không biết, vì xây dựng Cửu Trùng Đài mà hàng vạn dân phu, thợ thuyền bị lao dịch vất vả, bị đói rét, bị chết vì ốm đau, bị tai nạn, nhiều người bỏ trốn đã bị Vũ Như Tô bắt giết?
Đan Thiềm quá thương Vũ Như Tô, quá trọng cái tài của ông Cả, mà nàng như mê, càng ngày càng trở nên "lẩn quẩn". Khi quân khởi loạn đã đốt phá kinh thành, đập phá tan tành Cửu Trùng Đài, nhưng bà ta còn quỳ lạy, van xin Ngô Hạch (một võ sĩ, một đứa tiểu nhân): "Tướng quân tha cho ông Cả. Nước ta còn cần nhiều thợ tài để tô điểm". Lửa đã cháy đến chân, đầu sắp lìa khói cổ, nhưng bà ta vẫn "lẩn thẩn", u mê, van lạy: "Tướng quân hãy nghe tôi, đừng phạm tội ác. Đừng giết ống Cả. Tôi xin chịu chết".
Đan Thiềm quá thương Vũ Như Tô, quá quý trọng cái tài của Vũ Như Tô mới có ngôn từ và cách hành xử ấy. Nhưng tình cảnh đất nước loạn lạc, vua thì xa xỉ, hoang dâm, nhân dân lầm than đau khổ, một trong những "thủ phạm" làm cho dân chúng oán hận là Vũ Như Tô, kẻ đã xây Cửu Trùng Đài, bà ta có biết hay không? Trước dư luận, trước những lời khen chê của đồng loại (dù đó là lời thị phi) thì cũng phải biết lắng tai nghe mà suy ngẫm. Nhưng Đan Thiềm vẫn bỏ ngoài tai tất cả, Thậm chí cho đến lúc đầu sắp lìa cổ vẫn lẩn thẩn, u mê!
Xây Cửu Trùng Đài, phá Cửu Trùng Đài là chuyện đại sự quốc gia. Thế mà một cung nữ (cũng như hàng trăm hàng nghìn cung nữ khác chỉ biết đem nhan sắc thỏa mãn dục vọng bọn quân vương), trí lực có là bao, thế mà vẫn "nói nhảm", vẫn "dây vào" những chuyện tày đình! Cái chết của Đan Thiềm là một bi kịch: bi kịch về tình thương và lẽ phải, bi kịch về nhận thức mơ hồ, bi kịch giữa nghệ thuật và tội ác! Cái chết của Đan Thiềm là một bi kịch. Đúng như câu ca của dân gian đã lưu truyền:
"Giúp người mà chẳng lo xa,
Gây mầm tai họa, máu sa ngập đường".
Đan Thiềm đã "giúp", đã "thương" Vũ Như Tô, bà ta đã quý trọng tài năng người thợ giỏi, bà ta muốn bảo vệ Cửu Trùng Đài, nhưng bà ta có biết hay không vì Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài mà công khố hao hụt, dân gian lầm than! Xét cho cùng, Đan Thiềm cũng là một "đồng thủ phạm" với Vũ Như Tô, là kẻ đã "gây mầm tai họa".
Nghệ thuật không phải là sự lừa dối. Nghệ thuật cũng không chỉ để thỏa mãn cuộc sống xa hoa, ăn chơi trụy lạc của những vua quỷ, vua lợn, của bọn cường quyền, của một thiểu số người trong xã hội. Nghệ thuật không phải là cái bánh vẽ. Nghệ thuật càng không thể gây đau khổ cho dân chúng. Và những chuyện đại sự quốc gia không phải ai cũng có thể can dự vào. Đó là bài học, không chỉ cho những Đan Thiềm xưa nay mà còn là những điều cần suy nghĩ nghiêm túc cho bất cứ ai trong xã hội. Bởi vậy, Đan Thiềm là một nhân vật đáng thương hại.
Trong bài thơ "Dại khờ" (Tập "Gửi hương cho gió"), thi sĩ Xuân Diệu có viết:
"Người ta khổ vi thương không phải cách,
Yêu sai duyên, và mến chẳng nhằm người.
Có kho vàng nhưng chẳng tặng tùy nơi,
Người ta khổ vì xin không phải chỗ"
https://thuthuat.taimienphi.vn/cam-nhan-ve-nhan-vat-dan-thiem-qua-hoi-5-vo-kich-vu-nhu-to-42180n.aspx
Qua cuộc đời đầy bi kịch và cái chết của nhân vật Đan Thiềm trong lịch sử. trong vở kịch "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy Tưởng, ta càng thấm thìa những vần thơ trên đây của Xuân Diệu.