“Trao duyên” là đoạn trích mở đầu cho biến cố mười lăm năm lưu lạc của nàng Kiều. Bài văn mẫu bình giảng đoạn Trao duyên trích trong Truyện Kiều sẽ giúp các bạn hiểu hơn về bi kịch tình yêu và những trạng thái tâm lí mâu thuẫn đầy xót xa của nàng Kiều. Các bạn hãy đón đọc để có thêm những hiểu biết về đoạn trích “Trao duyên” cũng như kiệt tác Truyện Kiều nhé!
Đề bài: Bình giảng đoạn Trao duyên trích trong Truyện Kiều
Bình giảng đoạn Trao duyên trích trong Truyện Kiều
I. Dàn ý Bình giảng đoạn Trao duyên trích trong Truyện Kiều (Chuẩn)
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và đoạn trích Trao duyên.
2. Thân bài
a. Hoàn cảnh đoạn trích:
- Gia đình Kiều bị vu oan, cha và em bị bắt, gia đình bị tịch biên tài sản, cả nhà chỉ trông đợi và đôi vai Kiều gánh vác.
- Thúy Kiều bán mình chuộc cha để làm tròn chữ “hiếu”, nhưng bản thân nàng lại còn vướng mắc không biết làm sao cho trọn “tình với” Kim Trọng. Cuối cùng nàng nảy ra suy nghĩ trao duyên cho em gái là Thúy Vân.
b. Thúy Kiều trao duyên cho em:
* “Cậy em em có chịu lời/Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”:
- Cách nói và hành động cẩn thận, rụt rè khiến Thúy Vân nhận thức được sự hệ trọng của vấn đề.
- Kiều dùng từ “cậy”, tức là nhờ cậy một cách tin tưởng, thống thiết,
- E dè dùng từ “chịu lời”, tức là ẩn ý về một việc khó khăn, khó mở lời, chứa đựng ý bắt buộc, nài ép khiến Vân phải nhận lời.
- Hành động “lạy rồi sẽ thưa” là hành động khác thường trong lễ giáo phong kiến, nhưng khi rơi vào hoàn cảnh của Thúy Kiều, và nghĩ đến chuyện mà Thúy Kiều muốn cậy nhờ Thúy Vân, thì đó là một hành động hợp lý và khôn ngoan.
=> Lời nói và hành động như vậy đã tạo cho Vân cảm giác chân thành, nghiêm túc, tấm lòng trông mong sự giúp đỡ tha thiết, cùng với những dự cảm về một chuyện rất hệ trọng và chị ruột của mình sắp nói, thứ hai nữa là khiến Thúy Vân khó mà mở lời từ chối.
* “Giữa đường đứt gánh tương tư/Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”:
- Kiều trực tiếp “trao duyên” của mình với Kim Trọng cho em gái, mong em không chê bai mà giúp chị chắp nốt “mối duyên thừa”.
=> Thúy Kiều tỏ ra rất lý trí khi trao duyên, nàng trao duyên cho em một cách nhẹ nhàng “chắp mối tơ thừa mặc em”, đã “trao duyên” tức là cắt đứt.
* Lý do trao duyên:
- “Kể từ khi gặp chàng Kim/Ngày ngày quạt ước đêm đêm chén thề”:
+ Cho em biết về tình cảm sâu nặng giữa hai người.
+ Giải thích Thúy Vân hiểu rằng chuyện nàng bỏ Kim Trọng đi lấy chồng là việc vô cùng bạc nghĩa, thế nên ắt phải có cách đền bù trọn nghĩa cho Kim Trọng.
- “Sự đâu sóng gió bất kỳ/Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.
+ Khiến Thúy Vân thấu hiểu nỗi khó xử của mình, khi gia đình gặp biến cố tày đình như thế, đành rằng nàng là con trưởng thế nên phải gánh vác gia đình, phải làm trọn chữ “hiếu” mà bỏ rơi chữ “tình”. Thế nên mới có việc “trao duyên” cho Vân.
=> Việc giải thích tường tận rõ ràng thế đã khiến Thúy Vân có cái nhìn thấu đáo về vấn đề mà Kiều gặp phải, từ đó khiến nàng dễ dàng chấp nhận việc thay chị gả cho Kim Trọng hơn.
* Khẩn thiết nhờ cậy Thúy Vân một lần nữa dựa trên tình nghĩa chị em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.
-“Ngày xuân em hãy còn dài”, để thể hiện sự thấu hiểu của mình đối với cảnh ngộ của Thúy Vân, nếu không có biến cố gia đình và việc trao duyên này ,thì biết đâu Vân có thể có một mối duyên như ý nguyện, chứ không phải là phải chịu cảnh “chắp mối duyên thừa” của chị. => Dễ dàng khiến Thúy Vân động lòng thương chị.
- “Xót tình máu mủ thay lời nước non” dùng mối quan hệ máu mủ để thuyết phục Vân thương xót mình mà nhận lời, nhấn mạnh “Chị dù thịt nát xương mòn/Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.
=> Khiến Thúy Vân cảm động, mềm lòng, và chấp nhận trao duyên.
c. Thúy Kiều trao tín vật tình yêu và tâm trạng đau đớn, day dứt của nàng:
- “Chiếc vành với bức tờ mây”, bao gồm chiếc vòng đeo tay mà Kim Trọng tặng và cả thư từ lúc hai người đi lại, nhưng lại nói “Duyên này thì giữ vật này của chung”. => Nhận ra rằng Kiều lý trí, mạnh mẽ trao duyên cho em chỉ là vỏ bọc mạnh mẽ kiên cường bên ngoài đang che giấu nội tâm đau khổ.
- Trong thâm tâm Thúy Kiều cũng còn chút gì đó ích kỷ, tiếc nuối cho mối tình đầu dang dở của mình. Kiều đã trao duyên cho em, nhưng nàng không muốn vì thế mà Kim Trọng quên mất mình, nàng vẫn muốn rằng dẫu vợ chồng Vân - Kim có được hạnh phúc lâu bền, thì trong một phút giây nào đó vẫn còn “Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”.
- Mong muốn mỗi lần vợ chồng em gái nhớ đến chị, có thể “Đốt lò hương ấy so tơ phím này”, để nàng biết mà được an ủi.
- “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về...Rưới xin giọt nước cho người thác oan”: Dự cảm không lành về số kiếp của bản thân.
d. Tâm trạng của Thúy Kiều sau khi kết thúc trao duyên và tín vật:
- Kiều bắt đầu nhìn lại bi kịch của bản thân, và gần nhất chính là bi kịch tình yêu, nỗi đau đớn, day dứt đang thi nhau giày vò cào xé trong tâm khảm nàng bây giờ lại càng trở nên rõ ràng sâu sắc và mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
- Nỗi đau ấy của nàng được bộc lộ một cách trực tiếp thông qua lời than “Ôi Kim lang hỡi Kim lang/Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
- Nỗi xót xa, đoạn trường là tâm trạng day dứt, có lỗi với chàng Kim mà Kiều chỉ còn cách “Trăm nghìn gửi lạy tình quân” và “trao duyên” cho em gái để tạ lỗi với chàng.
- Thúy Kiều không chỉ xót xa cho mối duyên ngắn ngủi, lỡ làng của mình mà nàng còn trực tiếp bộc lộ cả lời than, sự bất lực trước số phận bất hạnh của mình rằng “Phận sao phận bạc như vôi/Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
3. Kết bài:
Nêu cảm nhận chung.
II. Bài văn mẫu Bình giảng đoạn Trao duyên trích trong Truyện Kiều
1. Bình giảng đoạn Trao duyên trích trong Truyện Kiều, mẫu số 1 (Chuẩn)
Trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa sau từ khoảng thế kỷ thứ XV trở đi, các sáng tác với đề tài phản ánh, tố cáo hiện thực xã hội và đặc biệt đề cao các giá trị nhân văn như thương cảm trước số phận bất hạnh con người, hay ca ngợi trân trọng những vẻ đẹp phẩm cách của người phụ nữ đặc biệt được một số tác giả thời kỳ này chú ý đến. Tiêu biểu như Nguyễn Gia Thiều với Cung oán ngâm khúc, Đặng Trần Côn với Chinh phụ ngâm, Nguyễn Dữ mở đường cho thể loại truyền kỳ với Truyền kỳ mạn lục, Hồ Xuân Hương với một loạt các bài thơ Tự tình, Bánh trôi nước,... trong đó nổi bật nhất phải kể đến đại thi hào Nguyễn Du và Truyện Kiều. Bằng tài năng, sự sáng tạo cái nhìn nhân đạo đi trước thời đại cả trăm năm, Nguyễn Du đã khéo léo xây dựng và viết nên một kiệt tác nghệ thuật, được xếp vào hàng kinh điển trong văn học nước nhà với những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Nếu như trong chương trình trung học cơ sở, các đoạn trích Cảnh ngày xuân, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Chị em Thúy Kiều, là những phân đoạn đặc sắc tiêu biểu cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình độc đáo và bút pháp ước lệ tượng trưng của Nguyễn Du, thì ở bậc trung học phổ thông chúng ta lại được tìm hiểu thêm nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lý nhân vật tài tình của tác giả. Một trong số các đoạn trích hay và đặc trưng cho bút pháp này của Nguyễn Du chính là đoạn trích Trao duyên.
Trao duyên là đoạn trích đặc sắc đi sâu vào khai thác những khía cạnh éo le trong nội tâm của Thúy Kiều khi bị buộc phải lựa chọn giữa chữ “hiếu” và chữ “tình. Người con gái tài sắc vẹn toàn đang sống trong cảnh nhung lụa “trướng rủ màn che” êm đềm, hạnh phúc, lại có được mối lương duyên ngọt ngào với chàng Kim Trọng. Những tưởng cuộc đời như thế là đủ mãn nguyện, nhưng ngờ đâu chuyện “Chữ tài đi với chữ tai một vần”. Chỉ trong một đêm biến cố ập đến, gia đình bị vu vạ, cha và em Thúy Kiều bị quan sai giải đi, ngôi nhà chỉ còn lại phận nữ nhi yếu đuối, toàn bộ tài sản bị tịch biên, lâm vào cảnh tay trắng mà không ai gánh vác. Thúy Kiều lúc ấy mới có bao nhiêu tuổi đầu đâu, vậy mà phải gánh vác cả một gia đình, trên vai nàng chính là tính mạng của Vương Ông và Vương Quan, là phận con, phận chị, về hiếu hay nghĩa nàng cũng buộc phải chọn gia đình và từ bỏ mối lương duyên mới bén với Kim Trọng. Thúy Kiều không còn cách nào khác đành phải nhờ mối mai bán mình cho Mã Giám Sinh làm vợ lẽ để lấy tiền chuộc cha đang đau đớn, tủi nhục. Lúc này đây sau khi đã giải quyết xong chuyện nhà, nghĩ đến Kim Trọng nàng không khỏi day dứt áy náy, vì bản thân mình đã bạc nghĩa với chàng, thế nên nàng đành “trao duyên” cho em gái là Thúy Vân, để em thay mình chắp nối mối duyên thừa, cũng coi như là trọn nghĩa với chàng Kim.
Dĩ nhiên chuyện “trao duyên” cho Thúy Vân, hay nói đúng hơn đó là ép gả Thúy Vân cho Kim Trọng là chuyện vô cùng khó khăn, một mặt nàng Vân vốn chưa chắc đã chịu đồng ý nhận lời, mặt khác tận tay cắt bỏ tơ duyên của mình rồi đẩy người yêu vào một vòng tay khác, dẫu đó có là em gái ruột thì cũng là một nỗi đau vô cùng lớn đối với Thúy Kiều. Thế nên trong đoạn trích Trao duyên ta không chỉ nhận ra sự thông minh khéo léo của nàng Kiều trong việc lựa lời “nhờ” em, mà còn là nỗi đau khổ dằn vặt của nàng khi tình yêu tan vỡ. Người con gái ấy phải chịu quá nhiều bất hạnh trong một thời gian ngắn, nhà tan cửa nát, bản thân phải bán mình làm lẽ, chấp nhận từ bỏ mối tình đầu đã thề nguyền đính ước trong nước mắt. Hỏi thế gian này mấy ai chịu đựng được?
Quay về với đoạn trích Trao duyên, Kiều đã mở lời với Thúy Vân bằng một cách thức độc đáo và khéo léo, dường như khiến người được nhờ là Vân có phần ngỡ ngàng và bối rối.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Rõ ràng với cách nói và hành động cẩn thận, rụt rè ấy đã khiến Thúy Vân nhận thức được rằng, chị mình đang nhắc đến một chuyện vô cùng quan trọng và nghiêm túc, thậm chí là chuyện mà nàng khó có thể chối từ. Kiều vốn thông minh, khéo léo, lời lẽ mực thước và sắc bén, nàng dùng từ “cậy”, tức là nhờ cậy một cách tin tưởng, thống thiết, tạo cảm giác bản thân nàng không còn cách nào khác nên mới phải nhờ đến Vân giúp. Đối với Vân lại e dè dùng từ “chịu lời”, tức là ẩn ý về một việc khó khăn, khó mở lời, thế nhưng cớ gì thì Kiều cũng buộc phải nói ra cho Vân biết rằng nàng cũng lâm vào thế khó xử, ở đó chứa đựng ý bắt buộc, nài ép khiến Vân phải nhận lời. Bên cạnh đó hành động “lạy rồi sẽ thưa” là hành động khác thường trong lễ giáo phong kiến, bởi người xưa vốn xem trọng tôn ti trật tự, vai vế trong gia đình, dẫu có sinh cách nhau một khắc thì chị vẫn là chị em vẫn là em, cớ sao có thể làm hành động chị cúi lạy em bao giờ. Thế nhưng khi rơi vào hoàn cảnh của Thúy Kiều, và nghĩ đến chuyện mà Thúy Kiều muốn cậy nhờ Thúy Vân, thì đó là một hành động hợp lý và khôn ngoan. Thứ nhất Kiều với lời nói và hành động như vậy đã tạo cho Vân cảm giác chân thành, nghiêm túc, tấm lòng trông mong sự giúp đỡ tha thiết, cùng với những dự cảm về một chuyện rất hệ trọng và chị ruột của mình sắp nói, thứ hai nữa là khiến Thúy Vân khó mà mở lời từ chối trong hoàn cảnh chị vừa “cậy” vừa “lạy” như thế, dù đó có là chuyện khiến nàng khó xử.
Sau khi đã đưa ra lời nhờ cậy và hành động rào trước đón sau khéo léo như thế, Kiều mới đi vào trực tiếp vấn đề trong hai câu thơ “Giữa đường đứt gánh tương tư/Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Tức bản thân Kiều trực tiếp “trao duyên” của mình với Kim Trọng cho em gái, rằng bản thân mình và chàng Kim nay chẳng may gặp phải cảnh trái ngang, nàng không thể cùng Kim Trọng nên duyên vợ chồng, thì mong em không chê bai mà giúp chị chắp nối “mối duyên thừa”. Khi bản thân Kiều nói ra những lời này, nàng cực kỳ lý trí, chuyện tình yêu tan vỡ, cùng với việc phải gả đi xa làm thiếp thất đầy đau đớn tủi nhục như thế nhưng có cảm giác nàng trao duyên cho em một cách nhẹ nhàng “chắp mối tơ thừa mặc em”, tức là nàng sẽ không còn liên quan gì đến chuyện của Vân và chàng Kim sau này, đã “trao duyên” tức là cắt đứt. Nhưng sau đó khi nghe nàng nhắc lại chuyện tình giữa mình và Kim Trọng người ta mới vỡ lẽ ra, hóa ra Kiều nói vậy nhưng lòng nàng thì đang nổi sóng, những nỗi đau đớn theo những kỷ niệm đang trào ra trong đáy lòng Kiều. Nàng nhẹ nhàng kể về chuyện “Kể từ khi gặp chàng Kim/Ngày ngày quạt ước đêm đêm chén thề”, tức là cho em biết về tình cảm sâu nặng giữa hai người, đã từng tặng quạt làm vật đính ước, lại cùng uống rượu thề nguyền tự định chung thân. Nói như vậy để cho Thúy Vân hiểu rằng chuyện nàng bỏ Kim Trọng đi lấy chồng là việc vô cùng bạc nghĩa, thế nên ắt phải có cách đền bù trọn nghĩa cho Kim Trọng, và đó chính là “trao duyên” cho Vân. Rồi Kiều lại phân tích tiếp tại sao nàng buộc phải từ bỏ mối duyên với chàng Kim rồi trao duyên cho em “Sự đâu sóng gió bất kỳ/Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Để khiến Thúy Vân thấu hiểu nỗi khó xử của mình, khi gia đình gặp biến cố tày đình như thế, đành rằng nàng là con trưởng thế nên phải gánh vác gia đình, phải làm trọn chữ “hiếu” mà bỏ rơi chữ “tình”. Không phải nàng muốn như thế mà bản thân Thúy Kiều không còn cách nào khác để xoay chuyển, đôi vai yếu ớt, non dại của nàng chỉ có thể cố gắng bấy nhiêu. Thế nên mới có việc “trao duyên” cho Vân. Việc giải thích tường tận rõ ràng thế đã khiến Thúy Vân có cái nhìn thấu đáo về vấn đề mà Kiều gặp phải, từ đó khiến nàng dễ dàng chấp nhận việc thay chị gả cho Kim Trọng hơn. Sau tất cả những lý lẽ trao duyên của mình, Kiều lại một lần nữa khẩn thiết nhờ cậy Thúy Vân rằng:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.
Một lần nữa ta lại nhận thấy sự khéo léo của Thúy Kiều trong việc đối đáp, nhờ cậy, nàng nói “Ngày xuân em hãy còn dài”, để thể hiện sự thấu hiểu của mình đối với cảnh ngộ của Thúy Vân. Nàng biết Vân hãy còn trẻ tuổi, thực sự rằng nếu không có biến cố gia đình và việc trao duyên này ,thì biết đâu Vân có thể có một mối duyên như ý nguyện, chứ không phải là phải chịu cảnh “chắp mối duyên thừa” của chị, phải gả cho người mà nàng không yêu thương. Kiều hiểu nỗi khó xử của Thúy Vân, cũng thông cảm cho vị trí của nàng lúc này. Cái sự thấu hiểu, thương xót ấy dễ dàng khiến Thúy Vân động lòng thương chị, đặc biệt là ở câu sau Kiều đã dùng cả mối quan hệ máu mủ ruột già “Xót tình máu mủ thay lời nước non” để thuyết phục Vân thương xót mình mà nhận lời. Ở vị trí của Vân, khi thấy chị mình đã cậy nhờ một cách khẩn thiết, đặc biệt còn nhấn mạnh “Chị dù thịt nát xương mòn/Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây” thì dù có là gỗ đá cũng phải thấy cảm động, mềm lòng, huống chi Thúy Vân dẫu không sánh được với chị về tài sắc, nhưng nàng cũng là cô gái được ăn học, thấu hiểu lễ nghĩa, nghe lời trọn lời thiết tha của Kiều sao có thể không nhận lời, không xuôi theo mà đồng ý kết duyên với Kim Trọng thay chị?
Sau cảnh trao duyên, chính là cảnh Thúy Kiều trao các tín vật định tình của nàng với chàng Kim cho em, để sau này Thúy Vân dễ bề thưa chuyện với Kim Trọng. Cũng từ đây ta nhận thấy một cách rõ ràng tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng cũng như những nỗi đớn đau, khắc khoải đang gặm nhấm trong lòng người con gái tội nghiệp. Kiều đưa lại cho em “Chiếc vành với bức tờ mây”, bao gồm chiếc vòng đeo tay mà Kim Trọng tặng và cả thư từ lúc hai người đi lại, nhưng lại nói “Duyên này thì giữ vật này của chung”. Đến đây người đọc mới thấy bất ngờ, tại sao đến bước này rồi, Kiều vốn đã trao hết duyên nợ cho em sao lại còn dặn dò em như thế nữa, thì mới hiểu ra rằng Kiều lý trí, mạnh mẽ trao duyên cho em, thốt lời “chắp mối tơ thừa mặc em”, chỉ là vỏ bọc mạnh mẽ kiên cường bên ngoài đang che giấu nội tâm đau khổ của nàng mà thôi. Đến khi sự việc đã thành, Thúy Vân đã nhận lời, chắc hẳn rằng trong thâm tâm Thúy Kiều cũng còn chút gì đó ích kỷ, tiếc nuối cho mối tình đầu dang dở của mình. Kiều đau đớn lắm chứ, còn gì đau hơn khi phải chắp tay dâng người mình yêu cho kẻ khác, dẫu đó có là em gái mình? Suy cho cùng cũng chỉ là tấm lòng ích kỷ của những người trong tình yêu, Kiều đã trao duyên cho em, nhưng nàng không muốn vì thế mà Kim Trọng quên mất mình, nàng vẫn muốn rằng dẫu vợ chồng Vân - Kim có được hạnh phúc lâu bền, thì trong một phút giây nào đó vẫn còn “Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”. Và trong những lúc ấy, Kiều hy vọng rằng chút tình nghĩa với Kim Trọng, hay mối quan hệ ruột thịt với Vân sẽ đủ để khiến hai người mãi nhớ về nàng, dẫu “mất người” nhưng vẫn “còn chút của tin”. Để rồi mai sau dù Kiều còn sống lưu lạc phương trời hay thậm chí chết đi thì mỗi lần vợ chồng em gái nhớ đến chị, có thể “Đốt lò hương ấy so tơ phím này”, để nàng biết mà được an ủi. Đọc đến đoạn này ta bỗng thấy Thúy Kiều luôn có một dự cảm không lành về số kiếp của bản thân, từ việc trao duyên, đến việc trao lại tín vật, ta thấy những hình dung của nàng về tương lai ngày một tối tăm và bế tắc, thậm chí những câu từ của nàng luôn gợi đến cái chết đậm đặc trong một đoạn nàng dặn dò Thúy Vân đốt hương, gảy đàn rằng:
“Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu nghìn đề trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Thúy Kiều khi đi chuyến này dường như đã có những dự cảm không lành về cuộc đời bất hạnh của mình, Thúy Kiều lúc ấy ngây thơ nghĩ rằng còn gì ghê gớm đáng sợ hơn cái chết nữa, nhưng không ngờ cuộc đời của nàng lại lâm vào cảnh đau khổ thậm chí sống còn không bằng chết đi. Nàng đã tìm đến cái chết tận ba lần (một lần khi ở cùng với Mã Giám Sinh, 2 lần tại lầu xanh), nhưng cuối cùng vẫn không thể chết mà sống lay lắt, đau khổ tận 15 năm, trước khi được Kim Trọng tìm về.
Sau những lời dặn dò cùng những dự cảm không lành của bản thân, Thúy Kiều lúc này đây đã trút bỏ được hết mọi mối tơ vò, chữ “hiếu” nàng đã sắp trọn, chữ “tình” cũng coi như xong. Kiều bắt đầu nhìn lại bi kịch của bản thân, và gần nhất chính là bi kịch tình yêu, nỗi đau đớn, day dứt đang thi nhau giày vò cào xé trong tâm khảm nàng bây giờ lại càng trở nên rõ ràng sâu sắc và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Phụ nữ vốn sống bằng tình cảm là nhiều, Thúy Kiều còn trẻ tuổi, lại có mối tình đầu quá đẹp và kết thúc trong đau thương thế nên nàng lại càng nghĩ ngợi và đau đớn hơn cả. Nỗi đau ấy của nàng được bộc lộ một cách trực tiếp thông qua lời than “Ôi Kim lang hỡi Kim lang/Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”. Đó là nỗi xót xa, đoạn trường là tâm trạng day dứt, có lỗi với chàng Kim mà Kiều chỉ còn cách “Trăm nghìn gửi lạy tình quân” và “trao duyên” cho em gái để tạ lỗi với chàng, chứ chẳng còn cách nào khác nữa. Thúy Kiều không chỉ xót xa cho mối duyên ngắn ngủi, lỡ làng của mình mà nàng còn trực tiếp bộc lộ cả lời than, sự bất lực trước số phận bất hạnh của mình rằng “Phận sao phận bạc như vôi/Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều đứng trước nghiệt ngã của cuộc đời, những mất mát to lớn như vậy đã không kìm được là lên tiếng thở than, tự thương xót cho số phận bèo bọt của mình. Đọc những lời thơ đau đớn, chan đầy nước mắt ấy, người ta không khỏi thương cảm, xót xa cho cô gái trẻ tuổi, tài sắc vẹn toàn thế nhưng lại có một cuộc đời bế tắc, bất hạnh tột cùng như vậy.
Trao duyên là một đoạn trích hay và ấn tượng về nghệ thuật phân tích, miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Thể hiện được nhiều khía cạnh trong tâm hồn của Thúy Kiều, đó là sự thông minh, sắc bén khi trao duyên cho Thúy Vân, là tấm lòng ích kỷ, đau đớn, tiếc nuối khi trao lại tín vật tình yêu cho em, cuối cùng là nỗi xót thương cho thân phận, và sự day dứt, cảm giác tội lỗi với chàng Kim khi bội ước. Tất cả đã được Nguyễn Du thể hiện một cách khéo léo và tinh tế trong đoạn trích gồm 34 câu thơ lục bát.
2. Bình giảng đoạn Trao duyên trích trong Truyện Kiều, mẫu số 2:
Trong số các trích đoạn của thiên truyện "Truyện Kiều" của tác giả Nguyễn Du, "Trao duyên" là một đoạn hay và có ý nghĩa rất lớn thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch tình yêu tan vỡ của tác phẩm. Đây chính là đoạn mở đầu cho những bi kịch trong cuộc đời Kiều, bi kịch về cả tình yêu và số phận, cũng là điểm khởi đầu cho quãng đời mười năm lưu lạc đầy đau khổ chốn phương xa của Thúy Kiều. Qua đoạn trích, người đọc thấu hiểu nỗi đau khổ xót xa của kẻ "hồng nhan bạc mệnh", cũng như thấy được biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du.
Vì một tai họa ập xuống gia đình, Kiều đành phải bán mình để lấy tiền hối lộ cho bọn sai nha, chuộc cha và em trai ra khỏi chốn lao tù. Việc Kiều phải bán thân đồng nghĩa với việc nàng hi sinh mối tình của mình với Kim Trọng, khi nghĩ đến tình yêu son sắt, mối nhân duyên trời ban của mình, Kiều đã quyết định trao duyên cho em gái Thúy Vân, nhờ cậy em hãy kết duyên với chàng Kim:
"Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."
Lời khẩn cầu, nhờ cậy của Thúy Kiều với Thúy Vân mở ra một tình huống đầy éo le, những lời mà Kiều nói không phải là lời lẽ hằng ngày giữa hai chị em. Chữ "cậy" là sự khẩn khoản đặc biệt, các từ "lạy" và "thưa" tạo nên không khí trang trọng trong một tình huống tâm lí phức tạp. Lời lẽ và hành động của Kiều cho thấy rõ vị trí của nàng đã thay đổi, nàng đã hạ mình trước em của mình để cầu khẩn, nhờ vả, chính vì nàng hiểu rõ việc mình nhờ cậy là khó khăn, gánh nặng và rất khó xử đối với Thúy Vân nên nhất thiết phải cầu khẩn như vậy. Kiều biết Vân hiểu hoàn cảnh gia đình, hiểu tình cảnh éo le mà Kiều sẽ phải trải qua, bán thân chuộc cha và em nghĩa là nàng không còn có thể đến với Kim Trọng nữa, chính vì thế nên đành phải nhờ Vân kết duyên với chàng Kim. Từng lời của Kiều ngắn gọn nhưng đủ tình đủ lí, hơn thế đó còn là nghĩa tình máu mủ ruột già:
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
Giờ đây, đối với Kiều mà nói, nàng không còn gì cả, chỉ biết lấy cái chết để nói hết ơn nghĩa đối với em, bởi chính nàng cũng không biết sau khi rời khỏi gia đình cuộc đời sẽ đi về đâu, sống chết thế nào, có nhờ cậy được em dù nàng có chết cũng mới yên lòng, toại nguyện. Thúy Kiều tuy khẩn thiết nhờ cậy em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng vẫn không thể che giấu được nỗi đau xót xa, tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim, khi trao những kỉ vật tình yêu lại cho Vân, dường như Kiều đang đứng trước sự mất mát to lớn:
"Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên."
Nhắc đến những kỉ vật tình yêu "chiếc vành", "bức tờ mây" nàng Kiều như đang được sống lại với những hoài niệm yêu đương, sống lại với tình yêu của mình, các kỉ vật của tình yêu ngọt ngào kia giờ đây chỉ là thêm muối xát vào nỗi đau chi li của mối nhân duyên. Kiều tham lam muốn những kỉ vật kia trở thành của chung của ba người, và sau này khi chàng Kim có trở về, có nên duyên với em của mình thì hãy nhớ đến kẻ bạc mệnh như nàng. Đứng trước bi kịch đầy đau đớn, Kiều nói những lời đầy tang thương, dù có phải sang thế giới bên kia, nàng vẫn mang nặng lời hẹn ước, lời thề chung thủy:
"Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu nghì đền trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan."
Những lời trên càng thể hiện rõ tình yêu sâu đậm, một đời trọn một lòng chung thủy của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, dù có chết Thúy Kiều vẫn mong muốn được gặp lại Kim Trọng, gặp lại người yêu, người mà nàng đã đành phải phụ bạc, hơn nữa nàng chết đi vẫn mong mọi người ở trên trần thế sẽ đồng cảm với mình. Đắm chìm trong nỗi đau thương, Kiều quên mất cả mình đang nói với Vân mà như nói với chính mình, nàng cất lên tiếng kêu xé lòng than oán cho tình yêu tan vỡ:
"Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Nàng Kiều gọi tên Kim Trọng hai lần cho thấy nàng đang vô cùng đau xót cho Kim Trọng, nàng đang trong hoàn cảnh bất hạnh vô cùng nhưng nàng lại thấy người bị mình phụ bạc, gán duyên còn bất hạnh hơn nhiều. Thúy Kiều yêu và thương Kim Trọng hơn cả bản thân mình, cảm thấy sự phụ bạc là do chính bản thân mình, câu thơ đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân cách, giàu lòng vị tha, trước sau như một của Thúy kiều.
Trích đoạn "Trao duyên" trong "Truyện Kiều" đã cho thấy ngòi bút tâm lí bậc thầy của Nguyễn Du, Thúy Kiều trong đoạn trích tuy đặt vào hoàn cảnh bi kịch nhưng nàng không hề bị động mà rất chủ động, chủ động hiểu hoàn cảnh của mình và rồi chủ động phơi bày những tâm tư tình cảm, ước muốn của cuộc đời. Đoạn trích tuy xoay quanh bi kịch tình yêu tan vỡ nhưng lại chứa chan sự chung thủy son sắt và đức hi sinh cao cả của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, tác giả đã qua nhân vật Thúy Kiều tô đậm vẻ đẹp phẩm chất của người con gái thời xưa, tài sắc vẹn toàn, hiếu nghĩa và giàu lòng vị tha.
3. Bình giảng đoạn Trao duyên trích trong Truyện Kiều, mẫu số 3:
Nguyễn Du - Đại thi hào trong làng văn học Việt Nam, người đã để lại cho kho tàng văn chương dân tộc một tuyệt tác thơ Nôm, đưa văn thơ Việt Nam có mặt trên bản đồ nghệ thuật thế giới. Cùng với những tên tuổi lúc bấy giờ như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương,... Nguyễn Du được coi như một bậc thành nhân, tác giả của tập truyện gối đầu giường của toàn thể những trí thức yêu thơ đương thời - Truyện Kiều. Đoạn trích “Trao duyên” trích từ câu 723 đến câu 756 là một trong số những đoạn tiêu biểu, thể hiện bi kịch tình yêu tan vỡ và sự dằn vặt tinh thần của nhân vật Kiều khi trao duyên cho em gái.
Được viết bằng thể loại truyện thơ chữ Nôm, Truyện Kiều được coi là một kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân từ Trung Quốc. Trước khi Nguyễn Du chắp bút lại, tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân hoàn toàn vô danh, không được ai biết đến. Bằng nghệ thuật ngôn từ sắc sảo cùng lối khai thác cốt truyện đi vào lòng người, Truyện Kiều giống như một tiếng đời, một bản nhạc u sầu não lòng về người con gái tuy xinh đẹp, thông minh nhưng lại bạc phận. Đoạn trích “Trao duyên” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc”, là lời tâm sự, giãi bày và nhờ cậy của Kiều đối với em gái Thúy Vân trước khi nàng phải rời xa gia đình. Biết không thể cứu vãn được số phận, nàng Kiều đành trao lại mối duyên dang dở với chàng Kim Trọng, mong em gái thuận lòng giúp đỡ.
Mở đầu là lời cầu khẩn của Kiều đối với Vân:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Một không khí có phần căng thẳng, một tình huống đặc biệt, éo le. Lời nói của Kiều đối với Vân tuy xưng chị em, nhưng lối dùng từ “cậy”, “lạy”, “thưa” không giống như quy tắc, cung cách vai vế trong gia đình phong kiến. Từ “cậy” cùng thái độ khẩn khoản mời em “ngồi lên” cho chị”lạy” và “thưa” của Kiều đã tạo nên một hoàn cảnh vừa lạ lẫm, vừa báo hiệu những điều chẳng lành. Kiều tự đặt bản thân xuống thân phận thấp hơn em gái, khẩn khoản cầu xin em ngồi lên trên để mình thưa chuyện, giãi bày tấm lòng. Kiều đặt mình vào thân phận của kẻ đi cầu xin lòng xót thương của người khác, van lơn chính đứa em gái ruột của mình. Phải chăng, vì nàng biết rằng những lời nàng sắp nói tới đây thật khó để Thúy Vân chấp nhận, làm như vậy là để đặt lên vai Thúy Vân một gánh nặng trách nhiệm, buộc phải giúp đỡ nàng.
Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ lời tâm sự về mối tình dở dang giữa nàng và Kim Trọng, tha thiết cầu xin Thúy Vân hãy vì tình chị em, vì sự hi sinh cho gia đình của nàng mà chấp nhận thay mình mối duyên. Đi thẳng vào vấn đề muốn nói với em, Kiều bắt đầu kể về sự gặp gỡ của mình và chàng Kim
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
“Quạt ước”, “chén thề cùng với “chiếc mành”, “bức tờ mây” là những vật kỉ niệm, minh chứng cho lời thề thủy chung sắt son của Kim và Kiều. Những vật đính ước đã trao, chén rượu trao duyên đã uống, về mặt quan niệm, hai người đã chính thức trở thành vợ chồng. Nhắc đến Kim Trọng, nàng Kiều nghĩ đến những kỉ niệm kí ức của nàng với người yêu, những món đồ làm tin lứa đôi trao cho nhau. Quý báu là vậy, trân trọng là vậy, nhưng giờ đây, trong hoàn cảnh éo le, nàng buộc phải đang tâm trao lại toàn bộ cho em gái. Sao có thể tránh khỏi đau đớn, xót xa. Trong hoàn cảnh cùng quẫn, Kiều phải lấy cả lý do chị em, máu mủ ruột thịt để hằng mong em nhận lời giúp đỡ: “Ngày xuân em hãy còn dài / Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”. Thậm chí, Kiều còn đề cập đến cả cái chết như một sự an bài của số phận nghiệt ngã, lấy đó làm lý do để khẩn khoản xin Thúy Vân thực hiện lời nhờ cậy của nàng, cho nàng được toại nguyện “ Chị dù thịt nát xương mòn/ Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.”
Lời cầu xin của nàng Kiều vừa có cái lý, vừa đậm chất tình. Nàng đưa ra những lý do hết sức thuyết phục, từ việc bản thân đã chấp nhận bán mình chuộc cha, nhờ em thực hiện giúp mối duyên với Kim Trọng vì lời hứa, lời thề đã định. Rồi tuy Vân Và Kiều cùng đến tuổi cập kê, nhưng Kiều lại nói “ngày xuân em hãy còn dài” như muốn ám chỉ một lý do hoàn toàn xác đáng, vì em còn trẻ, còn nhiều cơ hội nên hãy giúp chị hoàn thiện mối duyên với chàng Kim. Cái tình ở đây là tình chị em, tình cảm lứa đôi, tình gia đình máu mủ ruột rà. Những lời lẽ vừa thiết tha lại vừa ràng buộc như vậy, Vân nào có thể nhẫn tâm gạt bỏ. Trong cái khổ đau, trong cảnh cùng khổ như vậy nhưng người con gái ấy vẫn rất khéo léo, thể hiện bản chất thông minh trời phú và tài ăn nói ngắn gọn, có sức ảnh hưởng.
Bao phủ lên từng lời nói của Kiều trong Trao duyên là những lời tâm sự chân thật nhất, mộc mạc nhất của một cô gái mới biết yêu, mới yêu lần đầu nhưng chẳng may mắn có được cơ hội ở cạnh người thương. Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khai thác triệt để khía cạnh tâm lý, dùng lời của nhân vật để thể hiện tính cách của chính nhân vật ấy. Nàng Kiều với những cung bậc cảm xúc phức tạp, thăng trầm. Kiều nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, như bản thân nàng không hề che đậy nỗi đau khi duyên phận nghiệt ngã “giữa đường đứt gánh tương tư”, cũng như không đành lòng trao lại hết kỉ vật cho em gái. Tay thì trao nhưng lệ trào trong lồng ngực, để rồi bật thốt lên câu nói: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Cố gắng níu kéo một chút ân tình, một chút luyến tiếc kỉ vật lứa đôi. Có người cho rằng, hành động này của Kiều thật tính toán và nhỏ nhen, rõ ràng đã quỵ lụy van lơn người khác, nhưng đến khi trao duyên lại mở lời muốn giữ làm của chung. Nhưng cũng dễ hiểu thôi cho một cô gái đang lứa tuổi xuân thì. Yêu cháy bỏng khát khao là thế, làm sao đành lòng nhìn những vật đính ước của mình hoàn toàn thuộc về người khác. Cái níu giữ rất con gái , mang đầy sự ai oán, xót thương. Những mặt cảm xúc đối lập ấy càng làm rõ nét hơn bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng. Chỉ mới hôm nào còn yên ấm, còn trao nhau những vật hẹn thề, nhưng giờ đây chỉ còn là quá khứ lùi xa. Hạnh phúc chẳng tày gang, sự thật phũ phàng ngay trước mắt. Nỗi đau khi nhớ đến quá kuws dày vò, cắn rứt tinh thần của người con gái bạc mệnh. Chẳng còn gì đau hơn nỗi đau tinh thần, chẳng còn gì chua xót hơn phải chia lìa với người mình yêu thương, chấp nhận trao lại mối duyên cho người khác. Dương như, độc giả cảm thấy có mình trong Kiều. Đứng trước những quyết định khó khăn đến vậy, chẳng ai là không xao động, nao lòng.
Thương nhớ về quá khứ, Kiều cũng đề cập đến tương lai mịt mù, tăm tối, vô định của bản thân. Đứng trước sự chia lìa, người con gái tội nghiệp ấy chẳng màng đến ngày tương phùng, chẳng nghĩ đến ngày được đoàn tụ. Trước mắt nàng chỉ có cái chết đã được định sẵn, sự kết thúc của cuộc đời. Đáng thương thay khi một cô gái đang tuổi xuân thì, biết yêu và được yêu nhưng đã hoàn toàn mất niềm tin vào cuộc đời. Trong cơn bĩ cực, một lòng Kiều vẫn hướng về phía Kim Trọng, một mực cầu xin Thúy Vân thay mình tiếp duyên, mong cho hai người hạnh phúc, êm ấm
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân, bồ liễu đền ghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rày xin chén nước cho người thác oan
Dẫu đã sang thế giới bên kia nhưng linh hồn Kiều đã vẫn còn mang nặng lời thề, vẫn còn mong muốn, khao khát được về thăm người yêu qua những cơn gió hiu hiu nhè nhẹ, vẫn muốn được nhớ tới công ơn đã se duyên cho em gái và chàng Kim. Diễn biến tâm trạng từng bước phát triển đến cao trào, từ “lạy”, “thưa” cho đến khi trao từng món kỉ vật cho em, cuối cùng là những lời gửi gắm trước khi phải thật sự rời xa. Những lời tâm sự của nàng với Thúy Vân mang tính chất của những lời trăn trối với mục đích khiến cho em không thể không nhận lời giúp đỡ, đồng thời không hề che giấu việc luyến tiếc, níu kéo tình yêu tột độ. Sức mạnh của tình yêu son sắt mãnh liệt đã chi phối toàn bộ những hành động, lời nói của nàng Kiều. Tình yêu ấy quả thực lớn lao, để đến khi ngay cả lúc chỉ còn là hồn người vương vấn vẫn mong được nhớ tới, được trở về thăm người tình cũ.
Dù có mộng tưởng về quá khứ tình yêu mặn nồng hay dự cảm về tương lai dậy sóng, Kiều vẫn phải đối mặt với sự thật nghiệt ngã ở hiện tại. Nàng Kiều cuối cùng lại phải quay về với tình cảnh của mình, đau đớn tột độ khi nhận thức được bi kịch số phận, bi kịch tình yêu tan vỡ của bản thân không gì có thể cứu vãn nổi.
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Nào là “trâm gãy bình tan”, nào là “tơ duyên ngắn ngủi”, “nước chảy hoa trôi”, “phận bạc như vôi”,... đã nói nên tình cảnh thấm thía, xót thương về nỗi đau giằng xé tâm can. Buổi trao duyên đã trở thành những lời tâm sự, giãi bày của nàng Kiều đối với em gái, hay chính là lời tự thuật, độc thoại nội tâm của nàng. Bi kịch tình yêu vẫn còn đang mơn mởn, hạnh phúc lứa đôi mới chỉ chớm nở chẳng được bao lâu đã phải đứng trước thảm cảnh chia cắt. Đau lòng hơn là khi gia đình Kiều gặp gia cố, Kim Trọng còn đang ở quê chịu tang, không hay biết một tin tức gì. Dẫu vậy, tận trong tâm khảm của nàng, khát khao về tình yêu vẫn cháy bỏng mãnh liệt:
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Một lời than, một lời tự trách, một lời biệt li đầy chua xót. Kiều thốt lên gọi Kim Trọng hai lần. Nàng gọi Kim Trọng là “lang”, cách gọi của người vợ đối với đấng lang quân, với chồng mình. Nàng trân trọng mối tình ấy, đối với nàng, Kim Trọng khi chỉ còn là người yêu trong mộng mà đã là chồng, là người mà nàng tin tưởng phó mặc số phận. Sống hết mình vì tình yêu đến giây phút cuối cùng, tuy bị xã hội phong kiến chà đạp, nhưng ẩn sâu trong người con gái ấy vẫn là một trái tim khát khao yêu thương, vẫn giàu lòng nhân ái, tự nhận bản thân mình có lỗi, đã “phụ” chàng Kim. Nỗi bất hạnh của nàng bị đẩy lùi ra sau, nhường chỗ cho sự cảm thông sâu sắc, thương cho chàng Kim. Nàng Kiều nghĩ đến người yêu khi quay trở lại thành phố học tập sẽ nhận được tin mình đã lưu lạc phương trời nào không hay, bản thân nàng không tránh khỏi đau đớn. Kiều thơn chàng hơn cả bản thân mình, ý thức được hoàn cảnh hiện tại là do mình tự chọn lựa, vì vậy, nàng mới phải trao duyên cho em gái để Kim Trọng bớt cảm thấy cô đơn, đau lòng.
Qua những câu nói, hành động và diễn biến tâm trạng của Kiều, người đọc có thể hình dung ra nỗi bất hạnh của cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng số phận khổ đau ấy. Bản chất thông minh, sắc sảo cùng tài ăn nói khéo léo, thuyết phục, buổi trao duyên giữa Kiều và Thúy Vân được xây dựng giống như một cuộc đối thoại, nhưng thực chất chỉ là một mình Kiều độc thoại. Từng lời nàng nói với em đều như dứt ruột dứt gan, tâm sự từ tận đáy lòng mong em cảm thông và thay mình giữ trọn lời hứa với người yêu nàng. Sử dụng biện pháp độc thoại nội tâm nhân vật, Nguyễn Du đã khai thác triệt để được những cảm xúc riêng mang đậm dấu ấn cá nhân. Một quá trình diễn biến tâm lí phức tạp, biến chuyển, nhiều suy nghĩ chồng chất. Nàng Kiều tự kể, tự bộc bạch, tự bày tỏ những khó khăn, đau khổ và niềm khát vọng thầm kín của bản thân. Người đọc cảm thấy thật gần gũi, đồng cảm và sẻ chia cho số phận con người cùng khổ ấy, như được trực tiếp đứng chứng kiến cảnh trao duyên đầy nước mắt tủi thân và nuối tiếc của nàng Kiều.
Đoạn trích “Trao duyên” đã khắc họa được những cung bậc cảm xúc thăng trầm của nàng Kiều khi rơi vào tình cảnh éo le, buộc phải xa rời người yêu, đành nhờ em gái thực hiện lời hứa với Kim Trọng. Tác giả không trực tiếp miêu tả tâm lý nhân vật mà để nhân vật tự bộc lộ tính cách và cảm nhận qua từng hành động, cử chỉ và lời nói. Qua đó, Nguyễn Du bày tỏ sự yêu thương, tôn trọng với những người phụ nữ thông minh, sắc sảo nhưng kém may mắn, truyền tải niềm thương cảm với bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều. Đồng thời, tác giả cũng khéo léo lên án xã hội bất công, tính người bị coi rẻ, con người chỉ là vật mua bán, tình yêu đích thực bị chia cắt bởi những thế lực tàn bạo.
https://thuthuat.taimienphi.vn/binh-giang-doan-trao-duyen-trich-trong-truyen-kieu-42050n.aspx