Với những hướng dẫn chi tiết, Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự dưới đây sẽ giúp các em hiểu được ý nghĩa của việc đưa vào bài văn tự sự yếu tố nghị luận, qua đó biết cách vận dụng lí thuyết vừa học để thực hành một số đề văn cụ thể ở phần Luyện tập.
Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự, ngắn 1
I. Tìm hiểu yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự.
a.
* Đoạn a: Đây là những suy nghĩ nội tâm của nhân vật ông giáo trong truyện Lão Hạc của Nam Cao. Như một cuộc đối thoại ngầm, ông giáo đối thoại với chính mình, thuyết phục chính mình, rằng vợ mình không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”. Để đi đến kết luận ấy, ông giáo đã đưa ra các luận điểm và lập luận theo logic sau:
- Nêu vấn đề: Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác với họ.
- Phát triển vấn đề: Vợ tôi không phải là người ác, nhưng sở dĩ thị trở nên ích kỉ, tàn nhẫn là vì thị đã quá khổ. Vì sao vạy?
+ Khi người ta đau chân thì chỉ nghĩ đến cái chân đau (từ một quy luật tự nhiên).
+ Khi người ta khổ quá thì người ta không còn nghĩ đến ai được nữa (như quy luật tự nhiên đã nói trên mà thôi).
+ Vì cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất.
- Kết thúc vấn đề: “Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận”.
Về hình thức, đoạn văn trên chứa rất nhiều từ, câu mang tính chất nghị luận. Đó là các câu hô ứng thể hiện các phán đoán dưới dạng “nếu… thì…”; “vì thế… cho nên…”; “sở dĩ… là vì…”; “khi A… thì B…”. Các câu văn trong đoạn trích đều là những câu khẳng định, ngắn gọn, khúc chiết như diễn đạt những chân lí.
Tất cả các đặc điểm nội dung, hình thức và cách lập luận vừa nêu đều rất phù hợp với tính cách của nhân vật ông giáo trong truyện Lão Hạc – một người có học thức, hiểu biết, giàu lòng thương người, luôn nghĩ suy, trăn trở, dằn vặt về cách sống, cách nhìn người, nhìn đời,…
* Đoạn b: Trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, có thể thấy cuộc đối thoại giữa Kiều và Hoạn Thư được diễn ra dưới hình thức nghị luận. Hình thức này rất phù hợp với một phiên tòa. Trước tòa án, điều quan trọng nhất là người ta phải trình bày lí lẽ, nhân chứng, vật chứng,… sao cho có sức thuyết phục. Trong phiên tòa này, Kiều là quan tòa buộc tội, còn Hoạn Thư là bị cáo. Mỗi bên đều có lập luận của mình. Lập luận của Kiều thể hiện ở mấy câu đầu. Sau câu chào mỉa mai là lời đay nghiến: xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm, cay nghiệt như mụ - và xưa nay, càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái. Hoạn Thư trong cơn “hồn lạc phách xiêu” ấy vẫn biện minh cho mình bằng một đoạn lập luận thật xuất sắc. Trong 8 dòng thơ, Hoạn Thư nêu lên 4 “luận điểm”:
- Thứ nhất: Tôi là đàn bà nên ghen tuông là chuyện thường tình (nêu một lẽ thường).
- Thứ hai: Ngoài ra tôi cũng đã đối xử rất tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo (kể công).
- Thứ ba: Tôi với cô đều trong cảnh chồng chung – chắc gì ai nhường cho ai.
- Thứ tư: Nhưng dù sao tôi cũng đã trót gây đau khổ cho cô nên bây giờ chỉ biết trông nhờ vào lượng khoan dung rộng lớn của cô (nhận tội và đề cao, tâng bốc Kiều).
Với lập luận trên, Kiều phải công nhận tài của Hoạn Thư là “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Và cũng chính nhờ lập luận ấy mà Hoạn Thư đã đặt Kiều vào một tình thế rất “khó xử”:
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
b.
Luyện tập
Câu 1: Lời văn trong đoạn trích Lão Hạc ở mục I.1 (trong SGK) là lời của nhân vật ông giáo, ông thuyết phục bạn đọc, thuyết phục điều cố tìm mà hiểu những người xung quanh để cảm thông và thương yêu họ. Nếu có ai vì quá khổ mà mất khả năng cảm thông, không có khả năng đồng cảm với người khác – như là vợ ông giáo – thì ta cũng không vì thế mà giận họ.
Câu 2: Nàng Kiều đã khen Hoạn Thư là “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Đó là sau khi đã nghe Hoạn Thư kêu ca chạy tội. (Dựa vào phần tìm hiểu bài bên trên).
Xem tiếp các bài soạn để học tốt môn Ngữ Văn lớp 9
- Soạn bài Tập làm thơ tám chữ
- Soạn bài Bếp lửa
Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự, ngắn 2
Câu 1 (trang 137 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Đọc các đoạn văn.
Câu 2 (trang 137 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
a. Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích :
- Đoạn (a) : Đoạn trích “Lão Hạc” :
...nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.
- Đoạn (b) : Lập luận trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán.
+ Lập luận của Kiều là những lời mỉa mai đay nghiến (xưa nay đàn bà ghê gớm, cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái) :
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan !
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
+ Lập luận của Hoạn Thư :chuyển từ tội hại người thành tội ghen tuông thường tình, từng tha khi Kiều chạy trốn,... nhận lỗi, xin sự rộng lượng khoan hồng :
Rằng : “Tôi chút phận đàn bà
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”
b. Nội dung và vai trò yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự : Làm nội dung tự sự mạch lạc, khúc chiết. Tăng tính triết lí cho câu chuyện, tô đậm tính cách nhân vật.
Luyện tập
Câu 1 (trang 139 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Lời văn trong đoạn trích (a), mục I.1 là lời của ông giáo. Ông giáo đang thuyết phục chính mình rằng vợ ông không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.
Câu 2 (trang 139 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Ở đoạn trích (b), mục I.1, trình tự lập luận của Hoạn Thư :
- Phận đàn bà, ghen tuông thường tình : xóa sự đối lập trở thành người cùng cảnh ngộ “phận đàn bà”, tôi lớn (hại người) chỉ còn là tội ghen tuông ai cũng có. Từ tội nhân trở thành nạn nhân của chế độ đa thê (chồng chung).
- Kể công từng tha cho Kiều khi Kiều chạy trốn.
- Cuối cùng nhận lỗi và cầu mong sự rộng lượng.
------------------------HẾT------------------------------
Cảnh ngày xuân là bài học nổi bật trong Bài 6 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 9, học sinh cần Soạn bài Cảnh ngày xuân, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK
https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-bai-nghi-luan-trong-van-ban-tu-su-38046n.aspx