Qua nội dung soạn bài Xưng hô trong hội thoại trang 38 SGK Ngữ văn 9, tập 1, các em không chỉ được mở rộng vốn từ về xưng hô trong tiếng Việt mà còn được thực hành vận dụng lí thuyết vào việc giải bài tập cụ thể.
Soạn bài Xưng hô trong hội thoại, ngắn 1
I. Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô
Câu 1:
- Tất cả các danh từ chỉ quan hệ họ hàng trong tiếng Việt đều có thể trở thành từ xưng hô ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ hai.
- Một số từ chỉ nghề nghiệp, chức danh cũng có thể dùng làm từ xưng hô.
Câu 2:
- Xác định từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích:
+ Từ ngữ xưng hô trong đoạn trích thứ nhất: em – anh, ta – chú mày.
+ Từ ngữ xưng hô trong đoạn trích thứ hai: tôi – anh.
- Trong đoạn trích thứ nhất, sự xưng hô của hai nhân vật rất khác nhau, đó là sự xưng hô bất bình đẳng. Nhưng trong đoạn trích thứ hai, sự xưng hô thay đổi hẳn, đó là sự xưng hô bình đẳng.
- Vì tình huống giao tiếp thay đổi, vị thế của hai nhân vật không còn như trong đoạn trích thứ nhất nữa.
II. Luyện tập
Câu 1:
- Thay vì dùng “chúng em”, cô học viên người châu Âu dùng “chúng ta” Trong tiếng Việt, có sự phân biệt giữa phương tiện xưng hô chỉ “ngôi gộp” (tức chỉ một nhóm ít nhất là hai người, trog đó có người nói và cả người nghe như “chúng ta”) và phương tiện xưng hô chỉ “ngôi trừ” (tức chỉ một nhóm ít nhất là hai người, trong đó có người nói, nhưng không có người nghe như “chúng tôi”, “chúng em”…). Ngoài ra, có phương tiện xưng hô vừa có thể được dùng để chỉ “ngôi gộp”, vừa có thể được dùng để chỉ “ngôi trừ” như “chúng mình”.
- Khác với tiếng Việt, nhiều ngôn ngữ châu Âu không có sự phân biệt đó, chẳng hạn We trong tiếng Anh có thể dịch sang tiếng Việt là “chúng tôi” hoặc “chúng ta” tùy thuộc vào tình huống. Do ảnh hưởng của thói quen trong tiếng mẹ đẻ (không phân biệt “ngôi gộp” và “ngôi trừ”), cô học viên đã có sự nhầm lẫn. Điều đáng chú ý là việc dùng “chúng ta”, thay vì dùng “chúng em”/ “chúng tôi”, trong tình huống này làm cho ta có thể hiểu lễ thành hôn là của cô học viên người châu Âu và vị giáo sư Việt Nam.
Câu 2:
- Việc dùng “chúng tôi” thay cho “tôi” trong các văn bản khoa học nhằm tăng thêm tính khách quan cho những luận điểm khoa học trong văn bản. Ngoài ra, việc xưng hô này còn thể hiện sự khiêm tốn của tác giả.
- Tuy nhiên, cần lưu ý trong những tình huống nhất định, chẳng hạn khi viết bài bút chiến, tranh luận, khi cần nhấn mạnh ý kiến riêng của cá nhân, thì dùng “tôi” tỏ ra thích hợp hơn.
Câu 3: Trong truyện “Thánh Gióng”, đứa bé gọi mẹ của mình theo cách gọi thông thường. Nhưng xưng hô với sứ giả thì sử dụng những từ ta – ông. Cách xưng hô như vậy cho thấy Thánh Gióng là một đứa bé khác thường.
Câu 4: Vị tướng, tuy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, có quyền cao chức trọng, nhưng vẫn gọi thầy cũ của mình là “thầy” và xưng là “con”. Ngay khi người thầy giáo già gọi vị tướng là “ngài” thì ông vẫn khồng hề thay đổi cách xưng hô. Cách xưng hô đó thể hiện thái độ kính cẩn và lòng biết ơn của vị tướng đối với thầy giáo của mình. Đó quả là bài học sâu sắc về tinh thần “tôn sư trọng đạo”, rất đáng để noi theo.
Câu 5: Trước năm 1945, đất nước ta còn là một nước phong kiến. Người đứng đầu nhà nước là vua. Vua không bao giờ xưng với dân chúng của mình là “tôi” mà xưng là “trẫm”. Việc Bác, người đứng đầu nhà nước Việt Nam mới, xưng là “tôi” và gọi dân chúng là “đồng bào” tạo cho người nghe cảm giác gần gũi, thân thiết với người nói, đánh dấu một bước ngoặt trong quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân trong một đất nước dân chủ.
Câu 6: Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích này là của một kẻ có vị thế, quyền lực (cai lệ) và một người dân bị áp bức (chị Dậu). Cách xưng hô của cai lệ thể hiện sự trịch thượng, hống hách. Còn cách xưng hô của chị Dậu ban đầu thì hạ mình, nhẫn nhục (nhà cháu – ông), nhưng sau đó thay đổi hoàn toàn: tôi – ông, rồi bà – mày. Sự thay đổi cách xưng hô đó thể hiện sự thay đổi thái độ và hành vi ứng xử của nhân vật. Nó thể hiện sự phản kháng quyết liệt của một con người dồn đến bước đường cùng.
Soạn bài Xưng hô trong hội thoại, ngắn 2
I. Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô
Câu 1 (SGK Ngữ Văn 9 trang 38):
Một số từ ngữ thường dùng để xưng hô trong tiếng Việt: tôi - chúng tôi; bạn - các bạn; nó - chúng nó (họ); ta - chúng ta; anh, bác, ông - các anh, các bác, các ông; tao - chúng tao; mày - chúng mày; anh ấy, chị ấy, …
→ Tác dụng : vừa thể hiện vai vế, quan hệ, vừa để xưng hô.
Câu 2 (SGK Ngữ Văn 9 trang 38):
→ Sự thay đổi về cách xưng hô là do tình huống giao tiếp thay đổi, vị thế hai nhân vật thay đổi. Ở đoạn (a), Dế Choắt yếu thế, Mèn là kẻ mạnh. Đoạn (b), Mèn là kẻ mang ơn Dế Choắt, Mèn hối hận về hành động của mình.
II. Luyện tập
Câu 1 (SGK Ngữ Văn 9 trang 39):
- chúng ta: gồm cả người nói và người nghe
- chúng tôi/chúng em: không gồm người nghe
- chúng mình: có thể gồm người nghe hoặc không
Cô học viên đã nhầm lẫn trong cách dùng từ dễ gây hiểu lầm: mai cô và giáo sư sẽ làm lễ thành hôn. Cần thay từ chúng ta bằng từ: chúng em hoặc chúng tôi.
Câu 2 (SGK Ngữ Văn 9 trang 40):
Cách xưng hô “chúng tôi” thể hiện sự khiêm tốn của người viết và tạo sự khách quan, tăng tính thuyết phục cho văn bản.
Câu 3 (SGK Ngữ Văn 9 trang 40):
Cách xưng hô cậu bé với mẹ cho thấy sự quyết đoán mạnh mẽ. Xưng hô ta – ông với sứ giả cho thấy vai vế ngang hàng, thái độ dứt khoát, oai nghiêm của một đứa trẻ khác lạ, có thể làm điều phi thường.
Câu 4 (SGK Ngữ Văn 9 trang 40):
Địa vị người học trò cũ đã thay đổi nhưng cách xưng hô vẫn không đổi. Tuy trở thành một danh tướng nhưng vẫn nhớ và tôn trọng, biết ơn người thầy ngày xưa khi xưng hô “con – thầy”. Đó là một người có nhân cách lớn.
Câu 5 (SGK Ngữ Văn 9 trang 40):
Trước 1945, nước ta là nước phong kiến, người đứng đầu nhà nước là vua, xưng với dân chúng là "Trẫm", giữa vua chúa và nhân dân có một khoảng cách rất lớn. Bác là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, xưng hô "tôi" và "đồng bào" tạo cho cảm giác gần gũi, thân thiết, xóa đi khoảng cách giữa lãnh tụ và nhân dân.
Câu 6 (trang 41 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
- Cách xưng hô trong đoạn đầu thể hiện rõ sự phân biệt địa vị và hoàn cảnh giữa các nhân vật. Chị Dậu, người dân thấp cổ bé họng, lại đang thiếu sưu nên phải hạ mình, nhịn nhục : xưng hô cháu, nhà cháu – ông ; cai lệ, người nhà lí trưởng cậy quyền, cậy thế nên hống hách : xưng hô ông – thằng kia, cha mày – mày.
- Đoạn sau, cách xưng hô thay đổi. Chị Dậu xưng tôi – ông rồi sang bà – mày. Đó là hành vi thể hiện thái độ bất bình, phản kháng, "tức nước – vỡ bờ".
---------------------HẾT------------------------
Như vậy chúng tôi đã gợi ý Soạn bài Xưng hô trong hội thoại bài tiếp theo, các em chuẩn bị trả lời câu hỏi SGK, Soạn bài Viết bài tập làm văn số 1 - Văn thuyết minh và cùng với phần Thuyết minh về một loại động vật ở quê em để học tốt môn Ngữ Văn lớp 9 hơn
https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-bai-xung-ho-trong-hoi-thoai-38454n.aspx