Thơ Nguyễn Khoa Điềm mang nặng tình yêu với quê hương, đất nước. Taimienphi.vn đã biên soạn bài Phân tích chi tiết Đồng dao mùa xuân Ngữ văn 7 Kết nối tri thức với cuộc sống, học kì I dưới đây. Mời các em đón đọc để có những ý tưởng cho bài viết của mình.
Phân tích Đồng dao mùa xuân
Phân tích bài thơ Đồng dao mùa xuân ngắn nhất
I. Dàn ý phân tích bài thơ Đồng dao mùa xuân:
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nêu ý kiến khái quát về văn bản.
2. Thân bài:
* Phân tích về nội dung:
- Giải thích nhan đề:
+ Đồng dao: khúc hát của trẻ con ra đồng.
+ Mùa xuân: mùa bắt đầu của một năm.
+ "Đồng dao mùa xuân": khúc hát về những người lính đang tuổi thanh xuân rời xa quê hương để cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
- Hình ảnh người lính ra trận:
+ "Đi vào núi xanh": người lính rời xa quê hương để tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, tham gia hành quân qua núi rừng.
+ "Những năm máu lửa": năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước vất vả, gian lao.
+ Đó còn là những người lính mang sự hồn nhiên vui tươi: "chưa một lần yêu", "cà phê chưa uống", "còn mê thả diều".
- Sự hi sinh của người lính:
+ "Một ngày hòa bình/ Anh không về nữa": khi đất nước đã được thống nhất, hòa bình lập lại trên toàn quốc, mọi người được quây quần, đoàn tụ bên gia đình thì người lính mãi mãi nằm lại nơi núi rừng Trường Sơn.
+ "Một lần bom nổ/ Khói đen rừng chiều": hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh với bom đạn, khói súng.
+ "Anh thành ngọn lửa/ Bạn bè mang theo": dù hi sinh nhưng tinh thần chiến đấu bất diệt của anh luôn soi sáng cho đồng đội.
+ "Mười, hai mươi năm": thời gian cụ thể, dài đằng đẵng.
+ "Anh không về nữa": ẩn dụ cho sự hi sinh của người lính.
+ "Anh vẫn một mình/ Trường sơn núi cũ": người lính vĩnh viễn gửi gắm tuổi trẻ nơi núi rừng Trường Sơn.
+ "Ba lô con cóc/ Tấm áo màu xanh/ Làn da sốt rét/ Cái cười hiền lành": vừa diễn tả được hiện thực của cuộc chiến vì sốt rét rừng vừa mô tả được hình ảnh người lính xưa trong trí nhớ của đồng đội.
- Sự hóa thân của người lính vào đất trời:
+ Dáng ngồi lặng lẽ dưới cội mai vàng.
+ "Dài bao thương nhớ/ Mùa xuân nhân gian": đem đến hai cách hiểu: nỗi nhớ thương của những người lính và nỗi nhớ thương những người con anh dũng của nhân gian.
+ Vẻ mộng mơ của người lính với lí tưởng cao đẹp trong khổ thơ "Anh ngồi rực rỡ/ Màu hoa đại ngàn/ Mắt như suối biếc/ Vai đầy núi non...".
+ "Tuổi xuân đang độ/ Ngày xuân ngọt lành": tuổi trẻ người lính hòa vào mùa xuân đất nước.
+ "Theo chân người lính/ Về từ núi xanh": người lính hi sinh để lại tuổi xuân tươi trẻ của mình nơi chiến trường để mang đến mùa xuân hòa bình, độc lập cho dân tộc.
* Phân tích về nghệ thuật:
- Thể thơ bốn chữ ngắn gọn.
- Hình ảnh thơ trong sáng, bình dị.
- Ngôn từ tinh tế.
3. Kết bài:
- Khái quát và khẳng định giá trị của tác phẩm.
Phân tích tác phẩm Đồng dao mùa xuân ngắn gọn
II. Bài văn mẫu phân tích bài thơ Đồng dao mùa xuân:
1. Phân tích Đồng dao mùa xuân - mẫu số 1:
"Đồng dao mùa xuân" là một trong những bài thơ mang đậm dấu ấn sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Tác phẩm được viết vào tháng 12 năm 1994. Bài thơ như một câu chuyện kể về cuộc đời người lính qua cái nhìn đầy suy tư, sâu lắng của con người thời bình. Qua đó, tác giả muốn bày tỏ thái độ biết ơn, tri ân đối với những người đã có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Chủ đề tác phẩm được thể hiện ngay từ nhan đề. Trước hết, để có thể hiểu được ý nghĩa tên văn bản, chúng ta cần cắt nghĩa từ "đồng dao" và "mùa xuân". Đồng dao là những câu hát của trẻ em khi đi chăn trâu, làm đồng. Còn mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm, khoảng thời gian vạn vật, trời đất giao hòa, sinh sôi, nảy nở. Như vậy, đồng dao mùa xuân là câu hát về mùa xuân. Tuy nhiên trong bài thơ, cụm từ "Đồng dao mùa xuân" được hiểu theo nghĩa: khúc hát đồng dao về tuổi trẻ của những người lính xông pha ra trận để mang đến sự tự do, độc lập cho đất nước. Đây là khúc tráng ca ca ngợi anh bộ đội cụ Hồ.
Trước lúc rời xa quê hương, họ là những người lính vô tư, hồn nhiên khi "Chưa một lần yêu/ Cà phê chưa uống/ Còn mê thả diều". Trong không khí chung của thời điểm cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mĩ, người lính nghe theo tiếng gọi lí tưởng và tự nguyện "đi vào núi xanh". Năm tháng chiến đấu diễn ra liên miên, rất nhiều chiến sĩ đã ngã xuống trước "mưa bom bão đạn của kẻ thù". Hàng ngày, hàng giờ, vẫn còn đó những chàng trai trẻ xung phong ra chiến trận dù biết trước chưa chắc có ngày về. Họ để lại tuổi xuân, niềm mộng mơ, yêu thích của riêng mình để ra đi bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, hiện thực khốc liệt nơi chiến trường đã cướp lấy mạng sống của anh "Một lần bom nổ/ Khói đen rừng chiều". Ngày đất nước hòa bình, người người nhà nhà được tề tựu, quây quần bên nhau thì "Mười, hai mươi năm/ Anh không về nữa". "Mười, hai mươi năm" là những con số cụ thể cho thấy thời gian dài đằng đẵng. Anh vĩnh viễn gửi lại tuổi thanh xuân nơi núi rừng Trường Sơn sâu thẳm "Anh vẫn một mình/ Trường Sơn núi cũ".
Câu thơ "Anh thành ngọn lửa/ Bạn bè mang theo"này mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc: anh rời xa trần thế nhưng cái chết của anh trở thành ngọn lửa bất diệt, soi sáng ý chí, tinh thần cho đồng đội. Thân thể không còn song những hình ảnh về "Ba lô con cóc/ Tấm áo mùa xanh/ Làn da sốt rét" của anh vẫn luôn in sâu trong trí nhớ đồng đội. Cơn sốt rét rừng đã trở thành nỗi ám ảnh với biết bao người lính năm ấy. Căn bệnh "quái gở" khiến cho làn da vàng vọt, xanh xao. Chẳng phải nhà thơ Quang Dũng cũng chẳng từng đề cập trong bài thơ "Tây Tiến" hay sao?
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm."
Dù trong tình cảnh hiểm nghèo, khó khăn mọi mặt nhưng người lính vẫn nở nụ cười hiền từ, lạc quan. Nụ cười ấy như tiếp thêm sức mạnh chiến đấu cho những người đồng đội "đói khổ có nhau". Khổ thơ "bi" mà cũng hào hùng, tráng lệ vô cùng!
Sau ngần ấy năm, người lính hóa thân vào đất trời với dáng ngồi lặng lẽ. Từ "lặng lẽ" như phảng phất một nỗi buồn sâu kín song cũng gợi cho ta liên tưởng về tư thế uy nghiêm, kiên định. Mùa xuân tiếp tục xuất hiện thông qua biện pháp hoán dụ "mai vàng". Cả hai dòng thơ "Anh ngồi lặng lẽ/ Dưới cội mai vàng" đem đến hình dung về hình ảnh người lính đang ngồi canh giữ và hướng mắt về đất nước thân yêu. Ở những câu thơ tiếp theo "Dài bao thương nhớ/ Mùa xuân nhân gian" có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất là nỗi nhớ thương nhân gian của người lính. Còn cách hiểu thứ hai là nỗi nhớ thương về những người con anh dũng của đồng bào. Dẫu hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ vẫn thắm nồng tình cảm quân dân "Lòng anh và lòng tôi/ Mang nặng tình cá nước..." ("Cá nước" - Tố Hữu). Trong khổ thơ tiếp theo, hình ảnh người lính hiện lên thật thơ mộng:
"Anh ngồi rực rỡ
Màu hoa đại ngàn
Mắt như suối biếc
Vai đầy núi non..."
Người chiến sĩ âm thầm cống hiến, âm thầm hi sinh. Anh ra đi để lại mùa hoa rực rỡ. Dáng hình anh đã "hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên Đất nước muôn đời...". Tuổi xuân của anh đã hòa cùng mùa xuân của đất nước "Tuổi xuân đang độ/ Ngày xuân ngọt lành".
Bằng thể thơ bốn chữ ngắn gọn, biện pháp điệp cấu trúc "Có một người lính", "Anh không về nữa", hoán dụ "mai vàng", ẩn dụ "ngọn lửa", so sánh "mắt như suối biếc" cùng hình ảnh thơ trong sáng, ngôn từ bình dị, nhà thơ đã đem đến cho người đọc sự biết ơn đối với thế hệ cha ông. Chính họ đã làm nên mùa xuân hòa bình, độc lập cho đất nước, nhân dân.
Có thể nói, bài thơ là khúc hát chứa chan tình cảm của nhà thơ đối với những người lính đã ngã xuống vì nền độc lập dân tộc ngày hôm nay. Từ đây, chúng ta cần trân trọng và ghi nhớ công lao to lớn ấy. Mỗi người hãy bồi dưỡng, vun đắp những lí tưởng cao đẹp để cùng chung tay xây dựng, phát triển đất nước.của họ.
2. Phân tích Đồng dao mùa xuân - mẫu số 2:
Nguyễn Khoa Điềm được nhận xét là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vẻ đẹp của con người, quê hương, đất nước trong năm tháng khói lửa chính đã được ông tập trung khai thác và thể hiện. Viết về đề tài này, tác phẩm nổi tiếng và gần gũi bậc nhất có thể kể đến “Đồng dao mùa xuân”.
Đồng dao vốn là một thể loại thơ vần dành cho trẻ em, có nội dung rất ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc, được lưu hành bằng hình thức truyền miệng. Mỗi bài đồng dao đều mang ý nghĩa riêng, thường là những câu chuyện hoặc lời khuyên, lời răn dạy nhẹ nhàng. Ngay từ tiêu đề “Đồng dao mùa xuân”, tác giả đã muốn nói rằng đây là một câu chuyện được kể trong mùa xuân, kể về mùa xuân. Mùa xuân ở đây tất nhiên không chỉ khoảng thời gian trong năm mà lại ẩn dụ cho nền độc lập tự do của đất nước sau những tháng ngày chìm trong đau thương của chiến tranh. Vậy, có thể hiểu nhan đề “Đồng dao mùa xuân” chính là câu chuyện nhỏ về nền hòa bình của Tổ quốc.
Năm câu thơ đầu tiên trong bài đã cho chúng ta biết được khái quát câu chuyện này. Truyện kể về một người lính - anh bộ đội cụ Hồ đã góp phần mang đến mùa xuân cho cả đất nước. Anh đã đi vào “núi xanh” - hình ảnh tượng trưng cho dãy Trường Sơn hùng vĩ trong những năm mà cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra ác liệt nhất, rồi hi sinh ở đó. Câu chuyện được gói gọn trong vài câu chữ đơn giản nhưng chứa đựng một niềm xúc động và biết ơn mãnh liệt, cũng mở ra cho người đọc thấy hình tượng người chiến sĩ thanh niên xung phong mạnh mẽ, kiên trường, can đảm trong những năm bom đạn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, không biết bao nhiêu thanh niên Việt Nam đã gác lại bút nghiên, lên đường nhập ngũ với lí tưởng cao đẹp: “Xẻ dọc Trường Sơn cứu nước”. Họ đều là những người trẻ, mang trong mình khát khao độc lập và tự do, không ngại gian khó lao vào chiến trường ác liệt. Anh bộ đội trong bài thơ cũng là một người như thế. Anh nhập ngũ khi còn ở độ tuổi quá trẻ, chưa được nếm trải hết niềm vui của tuổi thành niên “Chưa một lần yêu/ Cà phê chưa uống”. Thậm chí, anh vẫn còn giữ nguyên những nét ngây ngô, trong sáng “Còn mê thả diều” của một đứa trẻ con. Vậy mà, anh quyết tâm lên đường cứu nước. Hình ảnh người lính Trường Sơn được tái hiện một cách chân thực qua khổ thơ:
“Ba lô con cóc
Tấm áo màu xanh
Làn da sốt rét
Cái cười hiền lành”
Màu xanh lá cây là màu áo đặc trưng của người lính. Nó giúp họ ngụy trang lẫn vào trong rừng cây để tránh được sự công kích của địch. Ba lô con cóc là đồ vật không thể thiếu của mỗi người lính trên chặng đường hành quân. Trong ba lô có vài bộ quần áo, đồ dùng cá nhân và những kỉ vật đặc biệt của gia đình, bè bạn. Làn da xanh bủng beo vì những cơn sốt rét rừng và thời tiết khắc nghiệt cũng là một đặc trưng không thể trộn lẫn của người chiến sĩ Trường Sơn. Những hơn tất thảy, trong khó khăn, ai ai cũng vững niềm lạc quan và hi vọng về tương lai chiến thắng rất gần. Vì vậy, họ luôn giữ nụ cười trên môi. Nụ cười hiền hậu, dễ gần như xua tan đi mọi khó khăn gian khổ ở chiến trường.
Thế nhưng, không phải ai cũng sống sót trở về sau cuộc chiến. Người lính trong bài thơ đã hi sinh. Sự hi sinh của anh được miêu tả thật đơn giản nhưng cũng đầy xúc động:
“Một lần bom bổ
Khói đen rừng chiều
Anh thành ngọn lửa
Bạn bè mang theo”.
Mỗi ngày, máy bay Mỹ ném bom trên dãy Trường Sơn không biết bao nhiêu lần. Trong “Những ngôi sao xa xôi”, Lê Minh Khuê đã viết: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Mỗi quả bom hẹn giờ là một quả cầu tử thần chực chờ cướp những người anh hùng của chúng ta đi. Người lính trong bài thơ cũng đã mất vì một trận bom nổ. Khói đen hun kín cả rừng, dưới bóng chiều chạng vạng. Câu thơ “Anh thành ngọn lửa” vừa tả thực, cũng ngầm ẩn dụ rằng sự hi sinh của anh chính là động lực, tiếp thêm sức mạnh và ý chí chiến đấu cho đồng đội của mình. Thời gian vẫn chảy trôi, tuy “Mười, hai mươi năm/ Anh không về nữa”, anh đã vĩnh viễn ở lại cùng với “Trường Sơn núi cũ” nhưng anh cũng đã góp phần tạo nên chiến thắng của dân tộc. Ở đoạn thơ này, tác giả cũng dùng biện pháp nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương, thể hiện lòng biết ơn, trân trọng người lính đã hiến trọn thân mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ba khổ thơ cuối bài, tác giả đã thể hiện sự hóa thân của người lính vào đất trời. Tác giả đã viết:
“Anh ngồi lặng lẽ
…
Về từ núi xanh”
Nỗi thương nhớ anh của tác giả cũng chính là nỗi lòng của gia đình, người thân, bạn bè anh. Bao nhiêu mùa xuân mà bấy nhiêu mùa nhớ. Hơn thế, những người con Việt Nam tuy không biết anh là ai những mãi khắc ghi công ơn của anh với đất nước. Anh đã hóa thân mình vào cánh hoa đại ngàn, vào ngọn suối biếc, núi non xanh. Khổ thơ tuy ngắn gọn nhưng đã mang được vẻ đẹp rực rỡ của rừng Trường Sơn. Chiến tranh qua đi, cánh rừng không còn vẻ xơ xác nữa mà trở nên đầy hùng vĩ, thơ mộng, tươi đẹp. Khổ cuối cùng, tác giả muốn ca ngợi những người lính đã hi sinh tuổi trẻ của mình, vậy nên đất nước mới có một mùa xuân hòa bình độc lập. Tất cả đều được dựng xây, bồi đắp từ dấu chân người lính từ nơi núi xanh.
“Đồng dao mùa xuân” là một bài thơ bốn chữ ngắn gọn nhưng đầy tinh tế. Mỗi hình ảnh, từ ngữ đều được chọn lọc kĩ càng, tỉ mỉ, miêu tả người lính một cách chân thực nhất và thể hiện tư tưởng, thái độ của thanh niên trẻ với đất nước trong thời đại bấy giờ. Hình ảnh thơ đầy trong sáng, bình dị cùng ngôn ngữ tinh tế đã giúp tác giả bộc lộ cảm xúc trân trọng, biết ơn, yêu thương một cách kín đáo nhưng đầy cảm xúc.
Với “Đồng dao mùa xuân”, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa tạo dấu ấn trong danh sách những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Đến ngày nay, mỗi khi đọc bài thơ, độc giả vẫn còn rưng rưng xúc động vì sự cống hiến và hi sinh của những người thanh niên trẻ không ngại dâng mình vì sự nghiệp của Tổ quốc.
.....................................................HẾT.................................................
https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-dong-dao-mua-xuan-ngan-gon-hay-nhat-71669n.aspx
Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính đã không tiếc tuổi thanh xuân để ra đi bảo vệ Tổ quốc. Cuộc sống yên bình ngày hôm nay phải đánh đổi bằng rất nhiều máu và nước mắt cha ông, các em hãy biết ơn và cố gắng học tập để xây dựng, bảo vệ đất nước nhé! Em có thể xem thêm những bài viết khác cùng chủ đề trong văn mẫu lớp 7 như: Đồng dao mùa xuân: tác giả, thể thơ, nội dung, nghệ thuật, bố cục, dàn ý; Tóm tắt Gặp lá cơm nếp; Gặp lá cơm nếp: thể thơ, bố cục, nhan đề, nội dung, nghệ thuật;...