Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương
Nêu giá trị nhân đạo của Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ ngắn gọn, hay nhất
I. Dàn ý phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương (Chuẩn)
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác phẩm
- "Chuyện người con gái Nam Xương" có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
2. Thân bài
* Giá trị hiện thực:
- Bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến:
+ Xuất thân bình dân, nết na, thùy mị, "tư dung tốt đẹp"
+ Chồng đi lính, một mình quán xuyến nhà cửa, lo cho mẹ chồng, cho con, mẹ chồng chết, "lo liệu ma chay như cha mẹ đẻ".
→ Người phụ nữ đẹp người đẹp nết, đại diện cho phụ nữ trong xã hội phong kiến.
+ Trương Sinh vì nghe lời nói của con, nghi ngờ bóng gió vợ mình, "đánh đuổi đi", khiến vợ rơi vào bế tắc phải tự tự để minh oan...(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương tại đây
II. Đoạn văn mẫu Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương của HSG siêu hay
"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ là một tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Đầu tiên, khi nói về giá trị hiện thực của tác phẩm này, ta phải nhắc đến số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Điển hình là Vũ Nương, người phụ nữ xinh đẹp, đảm đang nhưng có cuộc đời cay đắng, nghiệt ngã. Tất cả là do xã hội phong kiến bất công, tư tưởng "trọng nam khinh nữ" đã trao quyền hành vào tay người đàn ông, khiến họ trở nên hung bạo, tàn nhẫn với chính người phụ nữ của mình. Ngoài ra, chiến tranh phi nghĩa cũng là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Nếu không có chiến tranh, chắc hẳn người phụ nữ ấy sẽ có cuộc sống êm đềm, hạnh phúc bên gia đình, không phải chịu cảnh lẻ loi, cô đơn chốn khuê phòng. Từ hiện thực đầy bất công đó, tác giả Nguyễn Dữ đã lên tiếng tố cáo xã hội tàn ác đã đẩy người phụ nữ bé nhỏ vào tuyệt vọng, đến mức phải hi sinh tính mạng để chứng minh tấm lòng trong sạch. Đoạn kết mới được tác giả thêm vào chính là lời cảm thông, là tiếng nói đòi quyền được hạnh phúc cho những kiếp người có số phận như Vũ Nương. Ngoài ra, phần kết cũng thể hiện ước mơ về xã hội công bằng, hạnh phúc. "Chuyện người con gái Nam Xương" được đánh giá là một tác phẩm có sức sống lâu bền trong lòng người đọc. Tác phẩm đã phản ánh cho ta thấy bức tranh về xã hội đương thời, khiến cho người đọc vẫn không khỏi xót xa khi nhắc đến những người phụ nữ chịu nhiều bất công.
III. Bài văn mẫu Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn, hay nhất (Chuẩn)
1. Bài văn Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất - Mẫu số 1
" Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"
Đó chỉ là một trong hàng trăm những lời ca dao than thân của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ là những người phải chịu đựng rất nhiều bất hạnh, đau thương, phải sống trong một xã hội "trọng nam khinh nữ". Vậy nên, không ít những tác phẩm thơ và truyện đã ra đời để phản ánh những nỗi khổ cực mà những người phụ nữ hiền hậu đã trải qua trong xã hội phong kiến. Trong số đó phải kể đến tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương". Đây là một tác phẩm không chỉ hay về nội dung khi phản ánh được số phận đau khổ của người phụ nữ xưa mà còn thể hiện được những giá trị hiện thực và nhân đạo hết sức sâu sắc.
"Chuyện người con gái Nam Xương" được nhà văn Nguyễn Dữ viết lên để nói về một người phụ nữ tên là Vũ Nương. Nàng xinh đẹp, đức hạnh, khát khao hạnh phúc nhưng lại bị chính chồng mình, xã hội, chính lễ giáo phong kiến dồn ép phải rơi vào hoàn cảnh éo le, oan khuất. Kết thúc câu chuyện là hình ảnh của một Vũ Nương rực rỡ giữa dòng nước thoáng ẩn thoáng hiện nói với chồng mình lời tạ từ rồi biến mất.
Đầu tiên, người ta thấy ở tác phẩm này chứa đựng một giá trị hiện thực hết sức sâu sắc. Đó là hình ảnh của một người phụ nữ đức hạnh nhưng lại phải chịu biết bao khổ cực, đắng cay, cuối cùng phải chịu oan khuất mà đi tìm cái chết. Ở đây, truyện đã phản ánh được cái bi kịch của hầu hết những người phụ nữ sống dưới chế độ xã hội phong kiến tàn ác. Vũ Nương vốn chỉ xuất thân con nhà bình dân, nhưng sắc đẹp cùng phẩm hạnh của nàng đã lọt vào mắt xanh của Trương Sinh - con nhà hào phú nhưng không có học thức, lại còn có tính đa nghi, "với vợ phòng ngừa quá sức". Một người con gái như nàng, đẹp người đẹp nết, đáng ra nàng phải được lựa chọn cho mình một đức lang quân như ý, thế nhưng trong cái xã hội ấy, nàng phải thuận theo cha mẹ, thuận theo lễ giáo mà cưới một người như Trương Sinh.
Tuy vậy nhưng nàng cũng là một người vợ đoan trang, thủy chung hết mực. Ba năm chồng đi lính, nàng ở nhà lo việc nhà, chăm mẹ, chăm con, "cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết". Nàng đúng là mẫu người phụ nữ phẩm hạnh, đúng với lễ giáo phong kiến xưa.
Không chỉ xinh đẹp, nết na, thùy mị, thủy chung, nàng còn có "tư dung tốt đẹp" bởi khi chồng vắng nhà, một tay nàng quán xuyến việc nhà, chăm lo cho gia đình, cho mẹ chồng. Một người phụ nữ chân yếu tay mềm làm sao đủ sức vừa lo chuyện gia đình vừa có thể quán xuyến được việc nhà cơ chứ? Ấy vậy mà Vũ Nương đã thay chồng lo lắng hết mọi công việc trong nhà, nàng quả là người con gái giỏi giang hết mực. Đến lúc mẹ chồng chết, nàng còn một tay lo liệu ma chay, cúng tế cho mẹ "như đối với cha mẹ đẻ của mình".
Vũ Nương là hình tượng người con gái đại diện cho lớp phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đều có tài có sắc, xinh đẹp, nết na, thùy mị, thủy chung nhưng lại chịu chung một bi kịch trong số phận của mình. Nếu nàng Kiều phải chịu cảnh tủi nhục, buộc phải bán mình cứu cha, bị xã hội ấy chà đạp hết lần này đến lần khác trong vũng bùn tăm tối thì Vũ Nương còn đau khổ hơn với bi kịch của mình khi nàng bị chính chồng của mình nghi ngờ không giữ trọn tiết.
Trong gia đình, còn gì đau khổ hơn khi người chống "đầu gối tay ấp" nghi ngờ về tiết hạnh của mình? Với người phụ nữ trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ không tròn tiết hạnh thì thật là một người phụ nữ đáng khinh bỉ. Vậy mà Vũ Nương ở đây đã bị chính chồng mình nghi ngờ mình đã thất tiết. Dù nàng có giải thích, có van xin, "dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ" thì chồng nàng vẫn một mực nghi ngờ người vợ của mình. Điều đó đã đẩy nàng đến tột đỉnh của đau khổ, bởi chồng nàng "lấy chuyện bóng gió này nọ mắng nhiếc này, đánh đuổi đi", điều này đã khiến nàng phải nhảy sông tự vẫn để bày tỏ nỗi oan khuất của mình.
Phải nói, người phụ nữ trong xã hội xưa, mỗi người lại có cho mình một bi kịch đau khổ riêng. Bi kịch ấy dựng lên bởi xã hội phong kiến, bởi lễ giáo, bởi hệ quả của xã hội đương thời. Giá trị hiện thực của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở bi kịch của nàng Vũ Nương xinh đẹp mà còn phản ánh một xã hội phong kiến vô cùng bất công với người phụ nữ.
Một cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy Trương Sinh phải xa nhà, xa vợ, xa đứa con còn chưa chào đời để đến khi trở về, chàng đã tạo nên môi hiểu lầm sâu sắc khiến vợ mình phải chịu hàm oan. Nếu không có cuộc chiến tranh ấy, liệu có chăng cuộc sống của Trương Sinh đã khác và Vũ Nương cũng chẳng phải chịu oan khuất dưới dòng sông Hoàng Giang? Hơn nữa, chiến tranh loạn lạc ấy cũng cướp đi mạng sống của rất nhiều người dân trong nước, khiến họ phải chết đuối trên đường trốn chạy giặc giã "Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải Chi Lăng, nhân dân trong nước, nhiều người sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết đuối cả".
Không chỉ vậy, xã hội phong kiến ấy còn có những lề thói, lễ giáo bó buộc con người, dung túng cho những tư tưởng "trọng nam khinh nữ". Xưa kia, ông bà ta vẫn thường hay nói rằng: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", tức là có một người con trai mới gọi là có con còn có mười người con gái cũng chỉ như không có mà thôi. Một xã hội với tư tưởng như vậy, liệu chăng những người con gái như Vũ Nương có thể hưởng được hạnh phúc hay không? Ngay cả việc lấy Trương Sinh - một kẻ vũ phu, vô học cũng vô tình làm mất đi hạnh phúc của Vũ Nương. Đúng như lời than thân trách phận của người phụ nữ xưa vẫn hát:
"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?"
Nếu như xét trong mối quan hệ gia đình, một người đàn ông như Trương Sinh sau ba năm xa nhà, để vợ quán xuyến mọi việc, lo lắng mọi điều, đáng ra chàng ta phải vô cùng cảm ơn người vợ dịu hiền của mình chứ? Vậy mà chỉ với một câu nói vu vơ của một đứa trẻ còn chưa lớn, chàng ta đã vội vàng nghi ngờ vợ của mình mà bỏ ngoài tai hết mọi lời can gián, không chỉ là lời biện bạch của người vợ thủy chung mà còn là lời "bênh vực và biện bạch cho nàng" của xóm làng. Phải nói, sự ghen tuông này của chàng ta xuất phát từ cái tư tưởng "trọng nam khinh nữ", là hệ quả của cả một xã hội đương thời với lễ giáo trói buộc người phụ nữ vào "tam tòng tứ đức". Ở cái xã hội này, người phụ nữ dù làm gì cũng chẳng bảo vệ nổi bản thân mình, luôn là người chịu nhiều thiệt thòi và đau khổ nhất.
"Chuyện người con gái Nam Xương" đã thể hiện rất rõ ràng giá trị hiện thực. Đó là một xã hội phong kiến bất công, "trọng nam khinh nữ" với nhiều tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, lễ giáo khắt khe với người phụ nữ khiến họ rơi vào nhiều bi kịch, chẳng thể bảo vệ được bản thân mình. Cùng với đó là những cuộc chiến tranh liên miên, kéo dài, gây ra mất mát, đau thương cho nhân dân.
"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ không chỉ thể hiện những giá trị hiện thực rất chân thực mà còn phản ánh giá trị nhân đạo rất sâu sắc nữa.
Một tác phẩm chứa giá trị nhân đạo là khi tác phẩm đó biết lên án, tố cáo những thế lực đã đẩy con người ta vào bước đường cùng, chà đạp lên số phận, lên nhân phẩm của họ. Và thông qua những điều đó, nhà văn muốn gửi gắm tới họ niềm cảm thông sâu sắc trước bi kịch số phận mà họ phải chịu đựng, đồng thời ngợi ca những đức tính tốt đẹp của nhân vật và đưa ra một hướng giải thoát cho họ.
Ở tác phẩm này, Nguyễn Dữ đã thông qua nó mà muốn đề cao cũng như thể hiện niềm trân trọng vô cùng tới vẻ đẹp của người phụ nữ xưa. Thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương, ông muốn ngợi ca những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ: Tuy xuất thân bình dân nhưng nết na, thùy mị, đảm đang, thủy chung, tư dung tốt đẹp. Về nhà chồng thì cư xử đúng mực, "giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa". Chồng đi lính, nàng ân cần dặn dò, nói với chàng những lời thắm thiết, thấm đượm nghĩa tình, chỉ mong chồng trở về bình yên, chẳng cần "đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm".
Lúc chồng vắng nhà, lại một tay thu xếp, vun vén việc trong nhà, chăm mẹ chồng, chăm con, lo cho mẹ chồng như cha mẹ đẻ. Mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang. Lo cho bà, rồi "lấy lời ngọt ngào, khôn khéo mà khuyên lơn" bà, mong bà mau hồi lại sức khỏe. Nàng quả là một người con dâu hiếu thảo, hết lòng vì nhà chồng, cho tới tận lúc sắp ra đi, người mẹ chồng vẫn hết mực thương yêu Vũ Nương, cảm ơn nàng: "trời xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con chẳng phụ mẹ". Mẹ chồng chết, nàng lại "hết lòng thương xót", lo lắng việc ma chay cho ba "như đối với cha mẹ đẻ của mình".
Lúc chồng đi lính về, nghi ngờ nàng thất tiết, nàng hết mực phân trần "Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết" để giữ lấy hạnh phúc gia đình. Nàng mong chồng hiểu mình để giữ lấy, để hàn gắn hạnh phúc, để giữ gìn cái "thú vui nghi gia". Đến khi bất lực, không thể cứu vãn, Vũ Nương quyết đem cái chết để minh oan cho sự trong sạch của mình: "Bây giờ bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, ...., đâu còn có thể lên núi Vọng Phu kia nữa". Việc nàng quyết tâm gieo mình xuống sông là một hành động quyết liệt, quyết tâm bảo vệ danh tiết của mình, chứ không chịu để tiếng oan khó rửa. Nguyễn Dữ đã hết mực ngợi ca những phẩm chất của người phụ nữ, để đến giờ này, ông tỏ rõ thái độ bênh vực họ trong từng câu chữ của mình.
Không chỉ vậy, ông còn cất lên tiếng nói để đòi quyền công bằng cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ông tạo ra việc Vũ Nương được cứu sống bởi Linh Phi - vợ vua biển Nam Hải, cho nàng một cuộc sống bất tử. Đây là sự ưu ái của ông, là con đường mà ông tạo ra để giải thoát những người phụ nữ. Vũ Nương được sống ở cung điện dưới nước, được sống xứng đáng với phẩm giá mà nàng đáng được hưởng. Đến khi gặp Phan Lang, nhờ Phan Lang chuyển cho chồng chiếc trâm vàng với lời dặn: "Nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về". Trương Sinh nghe vậy, lập đàn tràng ba ngày ba đêm ở bến sông, Vũ Nương đã trở về giữa kiệu hoa võng lọng, nhưng chỉ đứng từ xa nói lời cáo biệt rồi biến mất. Nàng không muốn trở về, ở đây nàng sẽ sống ở một thế giới tốt hơn, đẹp hơn, nơi xứng đáng với giá trị của nàng mà không phải một xã hội tàn ác kia nữa. Đây cũng là lời đáp ứng nguyện vọng, mơ ước của nhân dân ta về một thế giới bất tử, nơi cái thiện, cái đẹp sẽ chiến thắng, về một xã hội công bằng, nơi giá trị của người phụ nữ được công nhận, được tôn vinh.
Bằng nghệ thuật kể chuyện độc đáo, đan xen những tình tiết kì ảo, Nguyễn Dữ đã tạo nên một tác phẩm thật thành công. Ông đã khắc họa hình ảnh của một người phụ nữ với tất cả những nét tính cách tốt đẹp nhất nhưng lại phải chịu số phận hẩm hiu, bất hạnh. Đó là hình tượng đại diện cho bi kịch của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cũng qua hình tượng đó, ông muốn ngợi ca họ, ngợi ca phẩm chất, giá trị của họ đồng thời lên án xã hội phong kiến bất công, cũng như cất tiếng nói đòi quyền công bằng cho những người phụ nữ.
Câu chuyện đã được viết lên từ hàng thế kỉ trước nhưng đối với chúng ta, nó vẫn còn nguyên giá trị như ngày nào. Những thông điệp sâu sắc giàu ý nghĩa về hiện thực xã hội, bất hạnh của con người, niềm thương xót, cảm thông của tác giả đối với những nhân vật trong tác phẩm sẽ luôn vang vọng mãi trong lòng mỗi người đọc chúng ta.
2. Bài văn Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương ngắn hay - Mẫu số 2
2.1. Dàn ý Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương:
2.1.1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" và tác giả Nguyễn Dữ.
- Giới thiệu về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
2.1.2. Thân bài:
a) Giá trị hiện thực:
- Số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: xinh đẹp, đảm đang nhưng "bạc mệnh".
- Lên án chiến tranh phi nghĩa đã chia cắt hạnh phúc đôi lứa, khiến cho bao gia đình tan vỡ. Người phụ nữ phải chịu nỗi cô đơn, lẻ loi, buồn tủi khi chồng đi chinh chiến. Rất nhiều người dân vô tội phải chết oan.
- Tố cáo xã hội phong kiến bất công, chế độ nam quyền tàn ác đã vùi dập biết bao người phụ nữ, đẩy họ vào bước đường cùng.
b) Giá trị nhân đạo:
- Lời cảm thông, tiếng nói đòi quyền được hạnh phúc của tác giả cho những con người có số phận như Vũ Nương.
- Thể hiện ước mơ về xã hội công bằng, con người sẽ "Ở hiền gặp lành".
- Lời tố cáo đanh thép dành cho xã hội tàn ác, bất công.
c) Nghệ thuật:
- Yếu tố kì ảo nhằm thu hút người đọc, truyền tải thông điệp, ước mơ của tác giả.
- Sự kết hợp giữa yếu tố kì ảo và địa danh, sự kiện có thật khiến cho người đọc có niềm tin hơn vào thông điệp mà tác giả muốn truyền tải.
2.1.3. Kết bài:
- Khái quát lại về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
2.2. Bài mẫu mẫu Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương hay ngắn lớp 9
Nguyễn Dữ là một danh sĩ sống ở thời Lê - Mạc, đã từng đỗ kì thi hương và ra làm quan. Thế nhưng, sau khi nhìn rõ bộ mặt thật của chính quyền phong kiến, bất mãn với thời cuộc, ông liền cáo quan về ở ẩn ở vùng núi xứ Thanh. Là một người đọc sách thánh hiền, ông luôn trăn trở về một xã hội lí tưởng. Đó là nơi con người được sống trong nền đức trị, trong sự công bằng và tình yêu thương. Tư tưởng này được thể hiện thông qua tập "Truyền kì mạn lục". Giá trị hiện thực và nhân đạo trong thiên truyện thứ mười sáu - "Chuyện người con gái Nam Xương" sẽ cho ta thấy rõ được quan điểm của ông về xã hội đương thời.
"Chuyện người con gái Nam Xương" có nguyên gốc từ câu chuyện dân gian "Vợ chàng Trương". Tác phẩm kể về nhân vật chính Vũ Nương. Nàng là người xinh đẹp, hiền thục, chu đáo, chung thủy chờ chồng đi lính trở về. Thế nhưng sau đó, nàng lại bị chồng nghi ngờ là thất tiết. Quá đau đớn và thất vọng, Vũ Nương bèn tự tử ở sông Hoàng Giang để chứng minh cho sự trong sạch của mình. Sau đó, Nguyễn Dữ đã đưa thêm các chi tiết kì ảo vào phần sau của truyện: Vũ Nương không chết mà sống dưới thủy cung. Nàng gặp lại người cùng làng là Phan Lang, nhờ anh ta cầm chiếc hoa vàng về cho Trương Sinh, cốt muốn chồng giải oan cho mình. Chồng nàng biết được bèn lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Vũ Nương hiện về với "cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông", nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, chấp nhận lời xin lỗi của chồng, nói lời từ biệt rồi biến mất.
Tác phẩm đã cho ta thấy được hiện thực cuộc sống của xã hội phong kiến. Chiến tranh phi nghĩa diễn ra liên miên khiến cho rất nhiều người phải chết oan "nhân dân trong nước nhiều người sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết đuối cả". Không những thế, chiến tranh còn chia cắt hạnh phúc đôi lứa, khiến biết bao gia đình tan vỡ. Người phụ nữ phải đưa tiễn chồng con đi lính, chịu nỗi cô đơn, lẻ loi khi còn đang ở độ tuổi xuân xanh. Người ở nhà lo lắng, mong chờ người ra trận được trở về bình an. Điều này cũng đã được thể hiện trong bài thơ "Chinh phụ ngâm":
"Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?"
Tưởng như những người phụ nữ chung thủy chờ chồng trở về sẽ có được cuộc sống hạnh phúc như họ mong ước nhưng sự thật thì ngược lại. Trương Sinh chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa con mà một mực nghi ngờ Vũ Nương thất tiết. Hắn ta dùng những lời lẽ nặng nề để mắng mỏ nàng, thậm chí còn giở thói vũ phu, đánh đập nàng không thương xót. Hóa ra, đằng sau sự chờ đợi lại là tấm bi kịch khó đoán. Chính là hiện thực xã hội bất công, vô nhân tính đã trao cho đàn ông cái quyền được làm chủ, quyết định số phận của người khác. Còn những người phụ nữ thấp cổ bé họng không có lựa chọn nào khác. Họ hoặc là sống trong tiếng oan muôn đời, bị mọi người phỉ nhổ, hoặc là tự vẫn để bảo toàn thanh danh. Vũ Nương đã chọn vế thứ hai. Nàng gieo mình xuống sông Hoàng Giang, kết thúc một kiếp người đau khổ.
Bất bình trước hiện thực nghiệt ngã đó, tác giả đã sáng tác thêm phần kết ở đằng sau như một cách để an ủi vong linh nàng Vũ Nương. Đoạn kết mới chính là tiếng lòng xót thương, đồng cảm của Nguyễn Dữ dành cho nhân vật. Ông đã giúp nàng được minh oan, đòi lại sự công bằng mà nàng xứng đáng. Từ đó, thể hiện ước mơ về một xã hội mà những người "ở hiền" thì sẽ "gặp lành". Như Phan Lang giúp đỡ Linh Phi rồi cũng sẽ được Linh Phi báo ân, cứu sống. Hay Vũ Nương hiền lương thục đức rồi cũng sẽ được minh oan. Thế nhưng thay vì trở về trần gian, nàng lại chọn ở lại thủy cung. Đây cũng chính là lời tố cáo đanh thép rằng xã hội phong kiến sẽ chẳng bao giờ có chỗ cho những con người như Vũ Nương. Ở đó, nàng mãi sẽ bị vùi dập, bị hắt hủi, bị đối xử bất công và tàn bạo.
Tóm lại, "Chuyện người con gái Nam Xương" là một tác phẩm vô cùng đặc sắc. Ở đó, tác giả đã cho ta thấy bức tranh về xã hội phong kiến thối nát, tàn bạo, bất lương, vô nhân tính. Những thông điệp sâu sắc về số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ đọng lại trong tác phẩm sẽ luôn khiến người đọc cảm thấy day dứt, nhói lòng khi nghĩ tới.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Tuy phụ nữ ngày nay không còn phải chịu nhiều nỗi bất công như nàng Vũ Nương trong xã hội phong kiến nhưng "Chuyện người con gái Nam Xương" vẫn là một tác phẩm bất hủ, khiến cho người đọc không khỏi thương tiếc cho số phận của những người phụ nữ khi xưa.
Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực xã hội nhiều bất công mà còn đồng cảm, xót thương cho thân phận người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương. Tìm hiểu thêm về cuộc đời và số phận Vũ Nương hay cũng chính là những người phụ nữ trong xã hội xưa, bên cạnh bài Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương trên đây, các em có thể tham khảo thêm: Bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua Chuyện người con gái Nam Xương, Bình luận về cái hay của tình huống truyện Chuyện người con gái Nam Xương, Phân tích bài Chuyện người con gái Nam Xương, Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-gia-tri-hien-thuc-va-nhan-dao-trong-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-47874n.aspx