Phân tích Chiều sông Thương, ngắn gọn, hay nhất

Dưới đây là bài văn mẫu Phân tích Chiều sông Thương, Ngữ văn 7, Kết nối tri thức với cuộc sống do đội ngũ Taimienphi.vn biên soạn và cung cấp. Em hãy theo dõi và tham khảo để có những định hướng phù hợp trong quá trình viết bài nhé.

Phân tích Chiều sông Thương, Ngữ văn lớp 7

phan tich chieu song thuong ngan gon hay nhat

Bài phân tích tác phẩm Chiều sông Thương ngắn gọn


I. Dàn ý Phân tích Chiều sông Thương

1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu khái quát cảm xúc về bài thơ.

2. Thân bài:
a. Phân tích nội dung bài thơ:
* Vẻ đẹp của sông Thương khi chiều buông:
- Cảnh vật bên sông: hoa Quan họ nở tím bên bờ.
- Dòng nước: vẫn chảy đôi dòng.
- Trên sông: "cánh buồm đang hát lên".
- Bầu trời cao xa: "đám mây trên Việt Yên/ rủ bóng về Bố Hạ".
- Cảnh vật gần bên dòng sông: ruộng lúa, lòng mương, nương mạ, lớp bùn, nước phù sa,...
-> Dòng sông Thương còn gửi gắm những ước mơ về một mùa màng bội thu, làm cho quê hương thêm ấm no "cho sắc mặt mùa màng/ đất quê mình thịnh vượng/ những gì ta gửi gắm".
* Tình cảm của tác giả về sông Thương, về quan họ quê hương:
- Cảm xúc trìu mến khi ngắm nhìn những cảnh vật quen thuộc bên dòng sông Thương.
- Từ sự xúc động, say đắm trước vẻ đẹp ấy, tác giả đã hát lên "ôi con sông màu nâu/ ôi con sông màu biếc".
-> Tình yêu thiên nhiên, quê hương sâu sắc luôn thường trực trong tâm trí và trái tim nhà thơ.
b. Phân tích nghệ thuật bài thơ
- Hình thức viết độc đáo: không viết hoa chữ cái đầu dòng.
- Thể thơ năm chữ ngắn gọn.
- Hình ảnh thơ gần gũi, thân quen.
- Lời thơ dạt dào cảm xúc.
- Các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, điệp ngữ.

3. Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị bài thơ.

Cam nhan bai tho Chieu song Thuong

Phân tích Chiều sông Thương, ngắn gọn, hay nhất


II. Bài văn mẫu Phân tích Chiều sông Thương

1. Phân tích Chiều sông Thương - mẫu số 1: 

Đọc thơ Hữu Thỉnh, ta cảm nhận được sự sâu lắng, tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời, con người Việt Nam. Đặc biệt, bài thơ "Chiều sông Thương" với hình ảnh gần gũi, quen thuộc, lời thơ da diết đã mang đến cho bạn đọc những rung động sâu sắc về cảnh sắc bên dòng sông Thương cùng tình cảm chân thành ở nhà thơ.

Mở đầu bài thơ, ta thấy được hoàn cảnh của nhân vật trữ tình:

"Đi suốt cả ngày thu

vẫn chưa về tới ngõ

dùng dằng hoa Quan họ

nở tím bên bờ sông"

Buổi chiều thu man mác buồn như bao trùm toàn bộ cảnh vật. Không khí lắng đọng của tiết trời ấy đã níu kéo bước chân người xa quê "vẫn chưa về tới ngõ". Trong giây phút bắt gặp hình ảnh thân quen "hoa Quan họ" bung nở sắc tím bên bờ sông, nhân vật trữ tình lại đưa mắt ngắm nhìn toàn bộ cảnh sắc:

"nước vẫn nước đôi dòng

chiều vẫn chiều lưỡi hái

những gì sông muốn nói

cánh buồm đang hát lên"

Với biện pháp điệp cấu trúc "nước vẫn nước đôi dòng/ chiều vẫn chiều lưỡi hái" đã nhấn mạnh cảnh vật quê hương vẫn như xưa, nguyên vẹn không thay đổi. Nổi bật trên nền không gian sông nước rộng lớn mênh mông là hình ảnh những con thuyền. Nhà thơ thật tinh tế khi miêu tả trạng thái tưởng chừng "tĩnh lặng" nhưng lại "động" của chúng. Từng cánh buồm được nhân hóa "đang hát lên" không chỉ khắc họa trạng thái "no căng gió" mà còn diễn tả được niềm vui ở con người qua lời ca, khúc hát.

Bức tranh thiên nhiên càng thêm mở rộng nhờ những nét vẽ tài hoa:

"đám mây trên Việt Yên

rủ bóng về Bố Hạ

lúa cúi mình giấu quả

ruộng bời con gió xanh"

Việc lựa chọn và sử dụng từ đã cho ta thấy được sự liên tưởng độc đáo, thú vị của nhà thơ. Bầu trời cao xa kia dần trở nên mềm mại, có thể "rủ bóng về Bố Hạ". Hạ tầm mắt xuống thấp, nhân vật trữ tình phát hiện ra hình ảnh "lúa cúi mình", "ruộng bời". Những cây lúa nặng trĩu hạt đang rung rinh từng ré như báo hiệu một mùa màng bội thu. Cánh đồng bao la, bát ngát bên dòng sông Thương đang tắm mình trong làn gió, gợi từng đợt sóng "xanh". Khung cảnh thiên nhiên thật yên bình, hòa hợp làm sao!

Theo dòng chảy của con sông quê, nhà thơ thấy được:

"nước màu đang chảy ngoan

giữa lòng mương máng nổi

mạ đã thò lá mới

trên lớp bùn sếnh sang"

Có thể thấy, mỗi sự vật đều vận hành theo một cách hết sức riêng biệt. "Nước màu" hay còn gọi là nước phù sa vẫn "chảy ngoan" vào "lòng mương", mang theo dưỡng chất cung cấp cho ruộng đồng. Xa xa kia, mấy đám mạ mới gieo đã khoác lên mình bộ áo mới, xanh mướt non tơ. Lớp bùn đất cũng được cày xới cẩn thận, trở nên láng mướt, mịn màng. Tất cả đang tiếp tục sinh sôi, nảy nở sự sống từng ngày từng ngày như báo hiệu một mùa màng bội thu. Phải chăng, đó cũng là mong ước của nhà thơ và người dân xứ Kinh Bắc "cho sắc mặt mùa màng/ đất quê mình thịnh vượng". Chứng kiến sự giàu có, trù phú nơi quê nhà, nhà thơ không khỏi hạnh phúc, say đắm. Thửa ruộng nào cũng lấp lánh ánh vàng của lúa gạo "sắp vàng hoe bốn bên". Niềm vui sướng tràn ngập, lan tỏa khắp ngóc ngách chốn thôn quê. Lắng nghe dòng chảy, nhà thơ càng thêm trân trọng, nâng niu món quà quý giá mà con sông ban tặng tới người lao động "hạt phù sa tất quen/ sao mà như cổ tích". Hạt phù sa kì diệu như phép màu cổ tích, làm cho đồng ruộng tươi tốt, màu mỡ, mang đến sự thịnh vượng, êm ấm cho quê nhà.

Từ cảm xúc lâng lâng, bâng khuâng khi ngắm nhìn cảnh sắc bên bờ sông Thương, nhà thơ đã hoàn toàn đắm chìm vào vẻ đẹp bình yên ấy. Sự xúc động, say đắm được gói gọn trong hai câu thơ "ôi con sông màu nâu/ ôi con sông màu biếc". Điệp từ "ôi" kết hợp với các từ "màu nâu", "xanh biếc" cũng cho thấy tình cảm da diết của tác giả. Dù con sông có màu nâu của phù sa hay trong veo "xanh biếc" thì nó vẫn mang đến sự sinh trưởng, nảy nở "dâng cho mùa sắp gặt/ bồi cho mùa phôi thai".

Bằng thể thơ năm chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi, lời thơ chất chứa cảm xúc kết hợp với các biện pháp tu từ như: nhân hóa "sông muốn nói", so sánh "mắt dài như dao cau" đã khắc họa sinh động bức tranh sông Thương trong buổi chiều thu. Ngoài ra, hình thức viết độc đáo, không viết hoa chữ cái đầu dòng từ câu thơ thứ hai làm bài thơ giống như một câu chuyện kể đầy tâm tình của người xa quê. Từ đây, ta cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, quê hương sâu sắc luôn in sâu trong tâm trí và trái tim nhà thơ.

Bài thơ "Chiều sông Thương" không chỉ là nét phác họa về bức tranh đồng quê yên ả nơi đồng bằng Bắc Bộ mà còn chan chứa tình cảm yêu mến, gắn bó của Hữu Thỉnh. Mong rằng, bài thơ sẽ sống mãi theo dòng chảy thời gian.

 

2. Phân tích Chiều sông Thương - mẫu số 2: 

Nhà thơ Hữu Thỉnh được biết đến như một trong những “cây đại thụ” của nền văn học Việt Nam thời hiện đại. Với giọng điệu nhẹ nhàng, tình cảm cùng sự giản dị mà không kém phần sâu sắc, ông đã đem đến cho kho tàng thi ca nước nhà vô số tác phẩm giàu giá trị. Trong đó, không thể không kể đến bài thơ “Chiều sông Thương”. 

“Đi suốt cả ngày thu

vẫn chưa về tới ngõ

cánh buồm đang hát lên”

Là người đi xa trở về trong một chiều thu, thế nhưng vẻ đẹp của dòng sông đã níu chân tác giả, khiến ông đi mãi “vẫn chưa về tới ngõ”. Hai câu thơ “nước vẫn nước đôi dòng/ chiều vẫn chiều lưỡi hái” gợi thật nhiều liên tưởng về một buổi chiều muộn. Khi ánh mặt trời dần buông xuống dưới chân núi, vầng sáng xung quanh biến thành hình lưỡi liềm chiếu xuống dòng sông xao động nhẹ nhàng. Ngoài ra, trên mặt nước còn có những bông hoa Quan họ tô điểm, “nở tím bên sông”, thấp thoáng có cánh buồm phía xa xa. Ở đây, tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa “hoa” - “dùng dằng”, “sông muốn nói”, “cánh buồm đang hát lên” để khiến câu thơ thêm phần sinh động, biến dòng sông trở thành một thực thể có hồn, có bè bạn, có tình cảm. Với hai khổ thơ đầu, tác giả đã diễn tả buổi chiều thu bên dòng sông Kinh Bắc thật nhẹ nhàng, êm đềm, đầy thơ mộng.

“đám mây trên Việt Yên

rủ bóng về Bố Hạ

lúa cúi mình giấu quả

ruộng bời con gió xanh”

Phóng tầm mắt ra xa, tác giả thấy những đám mây đang nối đuôi nhau từ Việt Yên về Bố Hạ. Hai địa danh của vùng đất Bắc Giang được nhắc đến thể hiện sự gần gũi, gắn bó quen thuộc của nhà thơ với vùng đất này. Hai bên bờ sông, những cây lúa đang “cúi mình giấu quả” báo hiệu một vụ mùa bội thu sắp tới gần. Cả đồng ruộng đều tràn đầy sức sống, tươi non mơn mởn được cơn gió xinh lướt qua rung rinh như cơn sóng màu xanh. 

Để khắc sâu thêm vẻ đẹp của đồng ruộng và tác dụng của dòng sông đối với cánh đồng, tác giả viết:

“nước màu đang chảy ngoan

giữa dòng mương máng nổi

….

hạt phù sa rất quen

sao mà như cổ tích”.

Chính dòng sông đã cung cấp nước cho đồng ruộng qua đường mương máng. Phù sa trong nước khiến cho lớp bùn thêm “sếnh sang”, nhiều dưỡng chất, giúp cây lúa phát triển, “mạ đã thò lá mới”. Hữu Thỉnh cũng khẳng định chính dòng sông Thương giúp cho mùa màng thêm sắc, “đất quê mình thịnh vượng”. Hai câu thơ “những gì ta gửi gắm, sắp vàng hoe bốn bên” đã gửi gắm thật nhiều hi vọng. “ta” ở đây có thể là tác giả, hay là người nông dân chăm chỉ sớm hôm chăm sóc cánh đồng. “những gì” là mồ hôi công sức, là tình yêu thương, là niềm hi vọng về tương lai ấm no hạnh phúc. Từ những ước vọng đầy trong sáng, chính đáng đó, nhà thơ đã ca ngợi “hạt phù sa” quen thuộc nhưng lại cực kì có ích cho cây cối, nông nghiệp, chứa phép màu nhiệm “như cổ tích”.

Chính vì vậy, tác giả ca ngợi dòng sông Thương trong câu thơ tiếp theo:

“ôi con sông màu nâu

ôi con sông màu biếc

dâng cho mùa sắp gặt

bồi cho mùa phôi phai”. 

Lúc bình thường, dòng sông mang màu xanh biếc hiền hòa, tươi đẹp. Khi mưa gió, nước lên, dòng sông lại biến thành màu nâu đỏ của phù sa. Những hạt phù sa này “dâng cho mùa sắp gặt/ bồi cho mùa phôi phai”. Khi cây lúa đến vụ gặt, phù sa sẽ thêm nhiều chất dinh dưỡng, để hạt ngọc trời thêm giá trị. Sau mỗi mùa vụ, đất đai hết dưỡng chất, phù sa lại bồi đắp thêm cho đất màu mỡ hơn. Vậy nên dù mang màu sắc gì đi chăng nữa, sông Thương vẫn đẹp. Đây không chỉ là vẻ đẹp khiến con người say đắm mà con mang lại nhiều lợi ích, niềm vui cho cuộc đời. 

Khổ cuối cùng, Hữu Thỉnh quay trở lại miêu tả dòng sông khi “nắng thu đang trải đầy” nhưng trăng đã “non múi bưởi”. Dòng sông chảy hiền hòa, chậm chạp hơn, trời dần tối khiến cho “cả chiều thu sang đông”. 

“Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh có nhiều biện pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng tưởng tượng, khiến người đọc cảm thấy dòng sông như một con người, vừa xinh đẹp, vừa chăm chỉ chăm sóc cây lúa từ khi còn là mạ non đến mùa gặt. Thông qua tác phẩm này, người đọc có thể thấy được tác giả là một người yêu quý thiên nhiên quê hương, biết ơn và trân trọng những gì thiên nhiên ban tặng con người.

 

- - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Khi tiến hành phân tích một bài thơ, em cần nắm rõ những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó. Trong quá trình viết bài, em nên trình bày rõ ràng các luận điểm, lí lẽ cùng dẫn chứng. Taimienphi.vn luôn cập nhật những nội dung mới nhất để phục vụ việc học của các bạn học sinh. Hãy theo dõi để không bỏ lỡ, em nhé!

https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-chieu-song-thuong-ngan-gon-hay-nhat-71681n.aspx
Các bài soạn, văn mẫu lớp 7 khác:
- Soạn bài Thực hành đọc: Chiều sông Thương (Hữu Thỉnh), Ngữ văn lớp 7 - Kết nối tri thức với cuộc sống
- Mẹ (Đỗ Trung Lai): tác giả, thể thơ, bố cục, nội dung, nghệ thuật, dàn ý

Tác giả: Công Lý     (4.0★- 3 đánh giá)  ĐG của bạn?

  

Bài viết liên quan

Giải bài tập trang 95 SGK Toán 3 Tập 1, sách Kết nối tri thức với cuộc sống
Giải bài tập trang 91, 92 SGK Toán 3 Tập 1, sách Kết nối tri thức với cuộc sống
Giải bài tập trang 30, 31, 32, 33, 34 SGK Toán 3 Tập 2, sách Kết nối tri thức với cuộc sống
Link tải Sách giáo khoa lớp 3 Kết nối tri thức
Giải toán lớp 6 trang 37 tập 1 sách Kết Nối Tri Thức
Từ khoá liên quan:

Phan tich Chieu song Thuong ngan gon hay nhat

, Chieu song Thuong doc hieu, Cam nhan bai tho Chieu song Thuong,

SOFT LIÊN QUAN
  • Bộ Sách Kết nối tri thức với cuộc sống

    File mềm sách Kết nối tri thức với cuộc sống cho học sinh

    Ngoài sách Chân trời sáng tạo, bộ sách Cánh Diều thì bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống cũng được Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam biên soạn theo tiêu chuẩn sách giáo khoa mới đưa ra thử nghiệm trong năm học mới. Giống ...

Tin Mới