Mẹo Phương pháp phân tích đoạn văn, đoạn thơ hay, đạt điểm 9, 10
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Khái quát về vẻ bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.
2. Thân bài:
2.1. Giải thích khái niệm:
- "Bi" là sự gian khổ, hi sinh.
- "Tráng" đó là sự hào hùng, dũng cảm.
=> Chất bi và tráng hòa quyện vừa thể hiện cái khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lại không bi lụy mà vẫn hiên ngang.
=> Bài thơ "Tây Tiến" vừa bi thương vừa hùng tráng. Đây là sự lệch chuẩn của bài thơ so với tinh thần chung của những tác phẩm văn học cách mạng nhưng chính sự lệch chuẩn đó lại là nét độc đáo làm nên sức sống lâu bền cho tác phẩm.
2.2. Phân tích vẻ đẹp bi tráng của người lính:
- "Anh bạn dãi dầu không bước nữa": Cực tả được cái mệt mỏi, rã rời của người lính.
- "Gục lên súng mũ bỏ quên đời": Người lính vẫn mải miết trên con đường hành quân cho đến khi kiệt sức ngã xuống. Không một phút giây nào các anh chùn bước, bỏ cuộc.
- "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc": Căn bệnh sốt rét rừng khiến cho mái tóc xanh của người lính không còn nữa.
- "Quân xanh màu lá dữ oai hùm": Nổi bật sự đối lập giữa diện mạo và tâm hồn người lính.
- "Rải rác biên cương mồ viễn xứ": Đã trực tiếp nói về sự hi sinh của người lính trên đường hành quân.
- "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh": Ý chí chiến đấu không chùn bước, không sợ hiểm nguy vất vả.
=> Quang Dũng nói về cái bi thương mà không hề bi lụy. Từ đó làm nổi bật phẩm chất anh hùng của người lính Hà Thành.
3. Kết bài:
- Đánh giá chung về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật:
+ Giá trị nội dung: Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến.
+ Giá trị nghệ thuật: Kết hợp giữa chất liệu hiện thực và cảm hứng lãng mạn, thủ pháp tương phản, đối lập.
Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu của văn học thời chiến. Khi nhắc đến sáng tác của ông phải kể đến bài thơ "Tây Tiến". Tác phẩm được coi là thi phẩm toàn bích hiếm có của thơ ca cách mạng, rất tiêu biểu cho hồn thơ Quang Dũng. Bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp bi tráng của những người lính Hà Thành trong kháng chiến.
"Bi tráng" đó là khái niệm vừa chỉ sự đau thương, vừa hào hùng. Người lính Tây Tiến hiện lên vừa bi, vừa tráng. Đây là sự lệch chuẩn của bài thơ so với tinh thần chung của những tác phẩm văn học cách mạng. Bởi lẽ, văn học cách mạng thường tránh nói về cái bi mà tập trung nhiều hơn vào việc cổ vũ tinh thần. Nhưng Quang Dũng lại không trốn tránh hiện thực mà có nhiều ý thơ diễn tả sự thật trần trụi về những khó khăn và hi sinh của người lính. Và chính sự lệch chuẩn đó lại là nét độc đáo làm nên sức sống lâu bền cho bài thơ "Tây Tiến".
Trên con đường hành quân, người lính không chỉ phải vượt qua những khó khăn mà còn phải đối mặt với cái chết "Anh bạn dãi dầu không bước nữa". Chặng đường hành quân vượt qua núi cao, vực sâu, mưa nguồn, sông núi vắt kiệt sức của người lính khiến các anh ngã xuống trong giấc ngủ ngàn thu. Những từ ngữ như "dãi dầu", "gục" đã cực tả được cái mệt mỏi, rã rời của người lính. Qua đây ta thấy được ngòi bút của Quang Dũng không hề né tránh hiện thực tàn khốc. Lòng tự trọng của người lính không cho phép Quang Dũng viết những câu thơ hoa mĩ, "kết lá vờn mây", che phủ cái phần khắc nghiệt của chiến tranh. Nhưng đối diện với những hi sinh gian khổ, người lính Tây Tiến vẫn hiện lên trong tư thế hiên ngang và tâm thế tuyệt đẹp "Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Người lính vẫn mải miết trên con đường hành quân cho đến khi kiệt sức ngã xuống. Không một phút giây nào các anh chùn bước, bỏ cuộc. Họ hi sinh nhưng súng mũ vẫn kề bên. Các anh chết trong tư thế hiên ngang của người chiến binh, chiến đấu đến tận thời khắc cuối cùng. Ba chữ "bỏ quên đời" thể hiện sự ngang tàng, ngạo nghễ của người lính anh hùng. Khi ra trận họ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng xem sự hi sinh là một phần tất yếu của cuộc sống để mà sẵn sàng đối mặt và chấp nhận cái chết.
Không chỉ vậy cái "bi" còn được thể hiện rõ ở câu "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc". Ý thơ đã diễn tả một hiện thực đau đớn trong chiến tranh. Những căn bệnh sốt rét rừng khiến cho mái tóc xanh của người lính không còn nữa. Tuy nhiên Quang Dũng nói về hiện thực bằng bút pháp lãng mạn. Dù diện mạo có khác thường thì người lính vẫn toát lên sự can trường, mạnh mẽ. Hai chữ "đoàn binh" mang âm hưởng hào hùng. Cách nói "không mọc tóc" ẩn chứa sự ngang tàng, chủ động và thái độ đầy thách thức của người lính.
Ở bốn câu thơ cuối ở khổ ba, nhà thơ đã tái hiện chân thực hình ảnh người lính trong cõi bất tử. Câu "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã trực tiếp nói về sự hi sinh của người lính trên chiến trường. Ý thơ khiến người đọc hình dung đến những nấm mồ nhỏ bé đơn côi, hoang lạnh nằm rải rác khắp nẻo rừng hoang viễn xứ, không có người hương khói. Tuy nhiên Quang Dũng nói về cái bi thương mà không hề bi lụy. Câu thơ tiếp theo "Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh" đã khắc họa tư thế tuyệt đẹp lên đường của người lính. Hai chữ "chẳng tiếc" đặt giữa dòng thơ vang lên như một lời thề vĩnh quyết, chứa đựng lí tưởng sống cao cả của những con người sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Nhưng có một hiện thực đau đớn đó là người lính hi sinh trong điều kiện vật chất thiếu thốn đến nỗi không có gỗ ván để mai táng. "Áo bào thay chiếu anh về đất" toát lên một ý vị đầy bi tráng. Cách nói "anh về đất" là biện pháp tu từ nói giảm nói tránh để giảm bớt đi sự đau thương. "Anh về đất" là về với đất mẹ bao dung, là hóa thân cho dáng hình xứ xở để làm nên đất nước muôn đời. Hay cũng có thể là trở về với thế giới vĩnh hằng của cha ông để hóa thân thành hồn thiêng của núi sông, là hòa vào thế giới của những con người không bao giờ khuất phục. Ở đây, sự ra đi cũng là một cuộc trở về và sự hi sinh của các anh sẽ tạo điều kiện cho sự sống mới được nảy sinh. Như một người cựu chiến binh đã viết: "Người hi sinh đất hồi sinh/Tim người hóa ngọc lung linh giữa trời".
Qua bài thơ "Tây Tiến" nhà thơ Quang Dũng đã làm nổi bật vẻ đẹp bi tráng của những người lính Hà Thành. Đối diện với cái chết họ không sợ hãi mà vẫn hiên ngang, lạc quan và yêu đời. Tác giả xây dựng sự đối lập giữa diện mạo và tâm hồn để qua đó làm nổi bật những nét đẹp của người lính. Tất cả điều đó đã làm nên tượng đài về những người lính dù trải qua nhiều khó khăn, thử thách nhưng vẫn hiên ngang, dũng cảm.
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.
Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ
"Tây Tiến đoàn quân... khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng.
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ
"Áo bào thay chiếu anh về đất"
Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
" Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán"
Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca "Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
-------------------------HẾT----------------------
Khi viết bài văn về vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến, các em cần chú ý những hình ảnh thơ để làm nổi bật cái bi và tráng. Như vậy chúng tôi đã gợi ý các em cách phân tích vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến. Để ôn tập, làm tốt các bài văn phân tích bài Tây Tiến của Quang Dũng, các em cần tham khảo thêm các bài Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến: "Doanh trại bừng lên... khúc độc hành" và cùng với phần Phân tích vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến để có thể hiểu rõ hơn về nội dung của bài.