- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu nhân vật thị.
a. Hoàn cảnh, ngoại hình:
- Một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình => Hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói năm 1945.
- Không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.
- Đang bước dần những bước cuối đến cái nghĩa địa của cuộc đời như nhiều số phận khốn khổ khác trong nạn đói kinh hoàng.
b. Tính cách thị khi mới gặp Tràng:
- Cách nói năng, hành động phản cảm:
+ Cong cớn, sưng sỉa, chỏng lỏn vì miếng ăn.
+ Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ.
+ Cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”.
=> Vô duyên, trơ trẽn, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn.
- Dưới cái nhìn nhân văn: Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, thị quyết không buông bỏ cuộc sống dễ dàng. => Khao khát sống mãnh liệt.
- Khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này. => Theo không Tràng về làm vợ.
=> Bên cạnh ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo không Tràng, thì Kim Lân cũng phản ánh một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.
c. Sau khi trở thành vợ Tràng:
- Trên đường trở về nhà với Tràng:
+ Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng.
+ Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.
- Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến thị thất vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với Tràng, quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng gia đình, phấn đấu vượt qua cái nghèo cái khó.
- Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép nép, ngại ngùng, thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
- Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,...
- Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng” => Cách cư xử tế nhị, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.
- Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật.
=> Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
Nêu cảm nhận
1.1. Dàn ý phân tích nhân vật vợ Tràng trong Vợ nhặt:
1.1.1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Khái quát về nhân vật thị trong tác phẩm.
1.1.2. Thân bài:
a, Lai lịch, tên gọi:
- Không có quê quán rõ ràng, chỉ được mô tả là một trong "mấy chị con gái ngồi vêu ra" ở cửa nhà kho.
- Không có tên riêng, chỉ được gọi là "thị" -> Sự rẻ rúng của con người trong hoàn cảnh nạn đói hoành hành.
b, Chân dung:
- Ngoại hình: "quần áo tả tơi như tổ đỉa", gương mặt "gầy sọp", như cái "lưỡi cày xám xịt", "chỉ còn hai con mắt" -> Tình cảnh thảm thương của người dân nghèo trong nạn đói.
- Khi gặp Tràng:
+ Lần thứ nhất: Vui vẻ giúp đỡ vì nghĩ sẽ được "ăn cơm trắng với giò".
+ Lần thứ hai: Sưng sỉa vì nghĩ Tràng lừa mình, ăn một chặp bốn bát bánh đúc, theo Tràng về nhà để bám víu sự sống.
=> Cái đói không chỉ làm con người biến dạng về ngoại hình mà còn cả về nhân cách.
c, Phẩm chất:
- Có sức sống mãnh liệt:
+ Dù mới gặp Tràng hai lần nhưng đã quyết định theo Tràng về làm vợ.
+ Chấp nhận theo Tràng dù không có sính lễ -> Khao khát thoát khỏi cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Nén tiếng thở dài khi thấy hoàn cảnh nghèo khó của nhà Tràng -> Chịu đựng để bám víu lấy cơ hội sống.
- Ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị rón rén, e thẹn, ngại ngùng đi phía sau Tràng.
+ Khi về đến nhà, thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường.
+ Khi gặp mẹ chồng, thi lúng túng, ngượng nghịu, "hai tay vân vê tà áo đã rách bợt".
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa, vườn tược -> Ra dáng một nàng dâu hiền hậu, đúng mực.
+ Khi thấy nồi cháo cám, "mắt thị tối lại" nhưng vẫn "điềm nhiên và vào miệng" -> Sự nể nang, ý tứ với mẹ chồng.
- Có niềm tin vào tương lai: Kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang -> Thắp lên ngọn lửa hi vọng trong gia đình.
=> Cái đói có thể làm mờ nhân tính con người trong một khoảnh khắc nhưng không thể vĩnh viễn cướp đi những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn.
1.1.3. Kết bài:
- Khẳng định lại tư tưởng của tác giả thể hiện qua nhân vật.
- Liên hệ mở rộng.
1.2. Bài văn mẫu Phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặt:
"Vợ nhặt" có thể được coi là một trong những truyện ngắn nổi bật nhất của nhà văn Kim Lân. Tác phẩm đã thành công khắc họa hình tượng con người nghèo khổ, bế tắc vào những năm tháng đau thương khi nạn đói hoành hành. Nếu như hai nhân vật Tràng và bà cụ Tứ hiện lên với sự chất phác cùng lòng thương người đáng quý thì người vợ nhặt lại chính là đại diện cho những mảnh đời bất hạnh. Tuy bị cái đói làm biến dạng cả về ngoại hình và tính cách nhưng sâu bên trong, tâm hồn thị vẫn tỏa sáng với nhiều phẩm chất tốt đẹp.
Người vợ nhặt trong tác phẩm hiện lên như một kẻ vô danh. Cô không có tên gọi, cũng chẳng biết quê quán nơi nào. Trong nạn đói, rất nhiều người dân từ những vùng khác phải đi di tản. Vậy nên việc xóa mờ lai lịch nhân vật chính là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Thậm chí, ngay cả một cái tên cô cũng chẳng có, chỉ được gọi với danh xưng "thị". Có thể nói, qua nhân vật này, Kim Lân đã nói lên được thực trạng hoàn cảnh của những người dân nghèo những năm 45. Thân phận họ bị rẻ rúng, phải đi tha hương cầu thực trong hoàn cảnh bấy giờ.
Bức chân dung người vợ nhặt hiện lên chủ yếu qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Ban đầu, cô chỉ là một trong "mấy chị con gái ngồi vêu ra" trước cửa nhà kho, "ngồi đấy nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm". Thấy Tràng hò mấy câu, thị còn "cong cớn" chòng ghẹo, "lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng" vì nghĩ sẽ được ăn "cơm trắng với giò". Nhưng đến lần thứ hai gặp lại, thị trông "rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa", "gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt". Cái đói đã khiến con người ta tàn tạ ra như vậy. Thậm chí, thị còn sưng sỉa mắng Tràng, không ngần ngại mà "sà xuống" "cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì". Dễ thấy, sự cực khổ của cuộc sống, sự hành hạ của cái đói còn tha hóa cả nhân cách con người, khiến họ trở nên trơ trẽn đến không ngờ.
Nhưng ẩn sâu trong con người tưởng như sỗ sàng, chua ngoa ấy lại là những phẩm chất vô cùng tốt đẹp. Thị hiện lên trước hết với sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Vốn tứ cố vô thân, khi thấy được cơ hội sống sót, cô đã ngay lập tức bám lấy. Chỉ gặp nhau có vỏn vẹn hai lần mà người phụ nữ ấy chấp nhận theo Tràng về nhà, đến sính lễ cũng chẳng cần. Thị thấy rằng Tràng chính là "cái phao cứu sinh" để cô vin vào, cốt chỉ cần vượt qua cái đói, cái nghèo khi ấy. Nếu đặt vào hoàn cảnh bấy giờ, độc giả cũng có thể cảm thông được cho những hành động của thị. Việc bất chấp tất cả, bỏ qua mặt mũi để có miếng ăn đã cho thấy khát khao sống mãnh liệt của cô.
Không chỉ vậy, thị còn thể hiện bản thân mình là một người phụ nữ ý tứ và nết na. Khác với thái độ sưng xỉa, chỏng lỏn khi mới gặp Tràng, người vợ nhặt sau khi về nhà chồng đã hoàn toàn lột xác. Trên đường về nhà Tràng, thị lúc nào cũng "rón rén, e thẹn", thậm chí còn "ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia" khi thấy người khác bàn tán về mình. Về đến "cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại", thị cũng chỉ dám "ngồi mớm xuống mép giường". Hoàn cảnh bây giờ khác với cái "rích bố cu" mà Tràng từng nói, làm cho thị không nén nổi tiếng thở dài. Ấy vậy nhưng cô chẳng chê trách, cũng không phàn nàn, chỉ im lặng nhẫn nhịn. Lúc ra mắt mẹ chồng, thị tỏ ra mình là người vô cùng lễ phép, một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn vẻ chỏng lỏn ban đầu. Ngày đầu tiên làm dâu, thị thể hiện sự đảm đang, tháo vát, hoàn toàn lột xác thành người phụ nữ của gia đình. Từ việc quét tước, thu dọn nhà cửa, sân vườn đến phơi quần áo, lấy nước,... đều được thị làm rất chỉn chu. Trong bữa cơm, thấy nồi cháo cám của mẹ chồng, "mắt thị tối lại" nhưng vẫn "điềm nhiên cho vào miệng". Tất cả những chi tiết ấy đã cho thấy một mặt khác hoàn toàn của người vợ nhặt. Cái vỏ bọc chua ngoa, đanh đá lúc trước đã hoàn toàn biến mất. Thay vào đó là một người vợ hiền thục, biết lễ nghĩa, đảm đang và ý tứ. Như vậy, điều này đã thể hiện cái nhìn nhân đạo của Kim Lân. Trong cái đói, cái nghèo, con người có thể bị biến dạng về ngoại hình, tha hóa về nhân cách nhưng sâu trong họ vẫn có bao phẩm chất tốt đẹp.
Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn có niềm tin vào tương lai tươi sáng, hạnh phúc. Trong bữa cơm, thị đã kể cho chồng và mẹ chồng nghe về sự kiện phá kho thóc Nhật ở trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang. Chi tiết này được Kim Lân khéo léo đưa vào để bộc lộ một cái nhìn, định hướng hoàn toàn mới của thị. Người phụ nữ ấy không chỉ có khát khao sống mãnh liệt mà còn dám nghĩ về sự phản kháng, về việc loại bỏ sự đói nghèo, khổ cực. Hình ảnh Tràng mơ màng về "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới" đã giúp độc giả dường như thấy được tinh thần cách mạng đang tràn về trong tâm trí con người. Rồi một ngày nào đó, Tràng và thị cũng sẽ cùng nhau đi phá kho thóc, tự giải thoát bản thân khỏi cái đói, cái nghèo.
Như vậy, có thể thấy Kim Lân đã thành công xây dựng hình tượng người vợ nhặt với những nét riêng độc đáo. Thị có thể khoác lên vỏ bọc cong cớn, chỏng lỏn nhưng sâu bên trong, người phụ nữ ấy vẫn có một tâm hồn đẹp và tràn đầy hi vọng. Thị chính là đại diện tiêu biểu cho số phận của những người nông dân trước Cách mạng. Qua đó, độc giả cũng thấy được rõ hơn tinh thần nhân đạo mà nhà văn Kim Lân muốn truyền tải.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Hình ảnh người vợ nhặt đã được Kim Lân khắc họa một cách vô cùng chân thực, độc đáo. Từ đó, thể hiện tình yêu thương, sự xót xa dành cho những mảnh đời bất hạnh. Ngoài ra để tìm hiểu kỹ hơn về tác phẩm Vợ nhặt mời các em tìm đọc các bài viết Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt, Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt,Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, Ý nghĩa nồi cháo cám trong Vợ nhặt.
Trong nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn những năm trước cách mạng và những năm đầu sau cách mạng tháng tám, Kim Lân là một trong những cái tên nổi bật nhất khi viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ. Dù có số lượng tác phẩm hạn chế, thế nhưng hầu như tác phẩm nào của Kim Lân cũng hay và có nhiều giá trị, là cơ sở xếp nhà văn vào một trong 9 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Điểm sáng và đáng lưu ý nhất trong các tác phẩm của Kim Lân ấy là giọng văn nhẹ nhàng, tình cảm, các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người, hướng đến một lối thoát nhân văn cho những kiếp người lầm than khốn khổ, chứ không tập trung tái hiện hiện thực khắc nghiệt đau thương của xã hội cũ. Vợ nhặt là một trong số những tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của Kim Lân, đặt trong bối cảnh đất nước những ngày đau thương nhất - nạn đói năm 1945. Nhân vật vợ Tràng là một trong những kiếp người khốn khổ tột cùng, cái đói đã khiến thị tàn tạ, xơ xác, để nên xấu xí trong mắt người đời, thế nhưng khi tìm hiểu sâu về nhân vật này ta mới phát hiện ra ở thị cũng có những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.
Nhân vật thị là một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình, và cũng chẳng ai biết thị từ đâu đến, cả cuộc đời trước khi gặp Tràng của thị dường như chẳng có gì để nhắc người ta nhớ đến. Cái hoàn cảnh khốn khổ của thị, chính là hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói năm 1945, tại cái thời điểm mà kiếp người rẻ rúng như cọng rơm cọng rác nhặt ngoài đường. Không chỉ nghèo khó, không lai lịch, tên tuổi mà trên người thị còn mang đủ những bất hạnh của một người đàn bà, thị không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại, người ta bắt gặp thị trong bộ ““áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Bấy nhiêu những nét vẽ ấy cũng đủ để thấy bản thân thị cũng đang bước dần những bước cuối đến cái nghĩa địa của cuộc đời như nhiều số phận khốn khổ khác trong nạn đói kinh hoàng.
Đã không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng, hành động của thị cũng khiến người ta mang nhiều phản cảm. Khi nghe anh Tràng hò mấy câu đùa cho khuây khỏa, nghe thấy có cái ăn thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng chẳng biết ngại ngần thị sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy nhiên sau bữa đẩy xe phụ, mà không được cái ăn, khi gặp lại Tràng thị đã sưng sỉa, chỉ thẳng vào mặt Tràng mà mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. Quả thực trước giờ chưa từng thấy người đàn bà nào trước mặt một người đàn ông lạ mới gặp hai lần mà có thể thoải mái, thậm chí đến mức vô duyên, trơ trẽn, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn như thị. Nạn đói nó khiến cho tâm hồn và nhân cách con người trở nên rẻ rúng, thiểu não quá. Nhưng đến khi xét kỹ lại, nhìn lại những hành động của nhân vật thị một cách nhân văn hơn, ta mới nhận ra rằng, thực tế khi đứng trước cái chết, cái đói, và đứng trước viễn cảnh hàng triệu người đang chết như ngả rạ trước mặt khó ai có thể bình tĩnh và cư xử một cách bình thường nổi. Ai mà không sợ chết, thị cũng sợ chết, và ngay lúc này đây khi gặp Tràng khi phải đối diện với lưỡi hái của tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng, thì những khao khát được sống sót của thị bùng cháy. Thị bất chấp tất cả để có được miếng ăn, vứt bỏ hết liêm sỉ, nhân cách chỉ vì được sống, quyết không buông bỏ cuộc sống dễ dàng. Không chỉ có khao khát sống mãnh liệt mà bản thân thị còn có những khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này. Thành thử ra chỉ với một câu nói nửa đùa nửa thật “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, mà thị đã không ngần ngại nhận lời, trở thành người vợ mặt dày, mày dạn theo không Tràng. Đối với thị bây giờ cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng còn quan trọng, miễn sao là có được một chỗ trú chân, một gia đình và qua được cái đói thì mọi chuyện đều có thể cho qua hết. Thế là thị đã nên vợ nên chồng với Tràng bằng những niềm hy vọng mới mẻ, thị mong rằng cái người trước mắt đã có thể sảng khoái mà đãi mình 4 bát bánh đúc, thì hẳn sau chung sống hắn cũng sẽ tử tế với mình, được nhiêu đó cũng đủ mãn nguyện rồi. Như vậy bên cạnh ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo không Tràng, thì Kim Lân cũng phản ánh một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.
Những tưởng thị trời sinh đã đanh đá, chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ của thị sau khi làm vợ Tràng ta mới nhận ra rằng, sự vô duyên, ghê gớm của thị chỉ là một cái vỏ bọc bảo vệ thị trong nạn đói, thực tế rằng thị cũng là một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau dáng vẻ tàn tạ, khốn khổ kia. Trên đường trở về nhà với Tràng, thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng. Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không, thành thử ra thị càng trở nên bối rối “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia”, nom đến thương vô cùng. Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, không có bàn tay người đàn bà săn sóc, không khỏi khiến thị thất vọng, buồn lòng, bởi có lẽ thị đã hy vọng về một ngôi hà tươm tất, đủ đầy hơn, để cuộc đời thị từ đây bớt khổ sở. Nhưng cảnh trước mắt kém quá xa so với những gì thị tưởng tượng, tuy nhiên thị không vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, thị bỗng trở thành một người đàn bà nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, rồi nén một tiếng thở dài”. Thị đã cất hết cái thất vọng, buồn bã của mình vào lòng, không để Tràng biết, quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng gia đình, phấn đấu vượt qua cái nghèo cái khó. Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, khi tưởng cụ không nghe thấy thị đã chào thêm lần nữa, dáng điệu khép nép, ngại ngùng, thực sự thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
Sau đêm tân hôn, thị lột xác trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,... Không khí gia đình trở nên hòa hợp vui vẻ và có nhiều hy vọng hơn cả. Đặc biệt khi đối diện với nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn bứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, không nói năng hay tỏ thái độ gì. Cách cư xử tế nhị ấy của thị, đã bộc lộ một nét tính cách khác của thị ấy là sự thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già thương con, thị hiểu rằng vì nghèo quá không có gì đãi con nhân ngày tân hôn thế nên bà cụ tội nghiệp mới cố kiếm một nồi cháo cám. Và trong không khí gia đình vui vẻ ấy, thị không muốn phá hỏng nó, khiến cho bà cụ trở nên bối rối. Cuối cùng cảnh thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là nhân vật đại diện cho hàng triệu kiếp người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy nhiên sống trong cảnh khốn khổ cùng đường nhưng thị vẫn giữ cho mình được những vẻ đẹp tâm hồn quý giá, tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống, khao khát hạnh phúc, niềm hy vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn. Bộc lộ rõ nét tư tưởng nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm của mình.
Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?
Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải.
Khi mới gặp Tràng:
+ Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở.
+ Phải chăng đấy là tính cách vốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được... ăn!
Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
+ Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.
+ Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà "chồng" để tránh sự dòm ngó của mọi người.
+ Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
+ Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ , thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế!
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng. Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ). Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng... Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.
Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.
Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức khác nhau. Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm. Ba nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả.
----------------------HẾT-----------------------
Bài viết đã phân tích cho các em thấy rõ được những nét tính cách và vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, đáng trọng của nhân vợ Tràng.