1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.
- Giới thiệu về hình tượng người lái đò sông Đà.
2. Thân bài:
a) Lai lịch, ngoại hình và nghề nghiệp:
- Lai lịch: Một ông đò già hơn 70 tuổi, không tên, quê ở "ngã tư sông sát tỉnh".
=> Hình tượng mang tính phổ quát, thường thấy ở những người lao động bình thường trong cuộc sống hằng ngày.
- Nghề nghiệp:
+ "Thời Tây, tàu…ông chở đò dọc tải chè mạn, chè cối từ Mường Lay cho đến hết cửa rừng Hòa Bình".
+ Phần lớn cuộc đời ông dành cho nghề lái đò dọc trên sông Đà - nghề cực nhọc, vất vả, hiểm nguy nhưng ông vẫn rất yêu nghề.
- Ngoại hình:
+ Hai tay dài lêu nghêu như cái sào.
+ Chân khuỳnh khuỳnh gò lại như đang kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng.
+ Nhỡn giới vòi vọi như trông vào cái bến xa nào đó trong sương mù.
+ Giọng nói ồm ồm như tiếng thác nước mặt ghềnh xa.
=> Ngoại hình dẻo dai, quắc thước => Nghề nghiệp đã in dấu lên vóc dáng, hình hài => Cái gian nan, khổ cực của nghề lái đò như "chạm khắc" vào người ông, làm nên hình dáng rất đặc biệt của ông lái đò.
=> Bức chân dung của người lái đò không chỉ có hình dáng bên ngoài mà còn có cả phong thái của con người sinh ra từ sông nước, gắn bó và yêu quý nghề nghiệp của mình.
b) Tài năng và tâm hồn ông lái đò:
- Trong thời gian hơn chục năm "trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần…chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…".
- Ông am hiểu tường tận về con sông, về phương tiện đi lại, ông dùng mắt "mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở".
- Ông thuộc dòng sông như thuộc "một trường thiên anh hùng ca".
=> Là người từng trải, hiểu biết và rất thành thạo trong nghề lái đò.
- Bình tĩnh, ung dung đối đầu với những cơn cuồng bạo của thác ghềnh "nén đau, giữ mái chờ, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo lần lượt vượt qua các vòng vây của thủy trận sông Đà".
- Xử lí các tình huống nguy hiểm một cách tài tình, linh hoạt "nắm chắc binh pháp của thần sông, thần núi…".
- Động tác điêu luyện "cưỡi đúng ngay trên bờm sóng luồng nước, phóng thẳng thuyền vào giữa thác…"
=> Là người mưu trí, dũng cảm, bản lĩnh và tài ba.
- Ông không thích lái đò trên những khúc sông bằng phẳng. Ông nói "Chạy thuyền trên khúc sông không có thác, nó dễ dại tay dại chân và buồn ngủ".
- Ông thích chạy đò qua những khúc sông có nhiều ghềnh thác vì ông cảm nhận rằng "hết ghềnh thác, hình như sông Đà hết đậm đà với nhà đò".
- Người lái đò không coi việc chiến thắng thủy trận sông Đà là một chiến tích vì "ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà", "không có gì là hồi hộp đáng nhớ".
=> Là người nghệ sĩ tài hoa, yêu mến và tự hào với công việc của mình.
c) Đánh giá về vẻ đẹp chân dung người lái đò:
- Người lái đò như viên dũng tướng tài ba, xông pha giữa trận mạc bằng lòng dũng cảm, ý chí kiên cường, sự khôn ngoan, mưu trí, dày dặn kinh nghiệm của mình.
- Người lái đò cũng là một nghệ sĩ tài hoa khi xem việc chèo đò, vượt thác ghềnh như là một nghệ thuật.
- Người lái đò chính là đại diện cho người lao động với vẻ đẹp bình dị, đời thường. Không hề nói về chiến công sau cuộc vượt thác mà họ lại nhìn thử thách bằng góc nhìn bình thường, xem đó là công việc thường ngày phải trải qua trong cuộc sống mưu sinh.
3. Kết bài:
- Khái quát lại về hình tượng người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Chính vì lẽ đó nên ông thường xuyên bị ấn tượng mạnh bởi những thứ đẹp đẽ, dữ dội nhất và tài hoa bậc nhất. Trong chuyến thực tế lên Tây Bắc để tìm "thứ vàng mười đã qua thử lửa" được cất giấu ở nơi đây, nhà văn đã gặp ông lái đò - một người lao động bình thường giản dị nhưng cũng là người nghệ sĩ tài hoa trong công việc chèo đò của mình.
Ông lái đò già đã hơn 70 tuổi, không được nhắc tên, quê ở "ngã tư sông sát tỉnh". Ngay lúc đó, người đọc đã biết cuộc đời người đàn ông này sẽ gắn liền với sông nước. Thật vậy, "Thời Tây, Tàu…ông chở đò dọc tải chè mạn, chè cối từ Mường Lay cho đến hết cửa rừng Hòa Bình". Phần lớn cuộc đời ông dành cho nghề lái đò dọc sông Đà - một công việc vất vả, cực nhọc và rất nhiều hiểm nguy nhưng ông vẫn rất yêu nghề. Chính đặc trưng nghề nghiệp đã ịn dấu lên dáng vóc, hình hài ông lái đò: "Hai tay của ông dài lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh gò lại như đang kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng", "Đôi mắt của ông vời vợi như đang trông vào cái bến nào đó trong làn sương mù", "Giọng nói ồm ồm như tiếng thác nước trên mặt ghềnh xa". Có lẽ cái gian nan, khổ cực của nghề lái đò đã "chạm khắc" vào người ông, làm nên hình dáng rất đặc biệt của ông lái đò. Chỉ qua vài nét miêu tả, Nguyễn Tuân đã khắc họa cho người đọc thấy ông lái đò chính là người sinh ra để gắn với nghề chèo đò trên sông nước.
Không chỉ là ngoại hình, sau nhiều năm gắn liền với công việc, ông lái đò đã trở thành người nghệ sĩ trong nghề của mình. Ông đã xuôi ngược trên sông Đà "hơn một trăm lần…chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…". Ông am hiểu tường tận về con sông, về phương tiện đi lại. Ông dùng mắt "mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở". Đối với ông, dòng sông như "một trường thiên về anh hùng ca" và ông cũng đã thuộc nằm lòng trường thiên đó. Ông lái đò đã trải qua không biết bao nhiêu lần vượt thác lũ, rất hiểu biết và thành thạo về dòng sông và nghề chèo đò.
Không biết là do tính bình tĩnh thiên bẩm hay đã kinh qua quá nhiều cơn thác lũ, ông lái đò luôn giữ tư thế ung dung đối đầu với những cơn cuồng bạo của thác ghềnh. Khi phải chiến đấu với trùng vi thạch trận sông Đà và bị thương, ông vẫn "nén đau, giữ mái chờ, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo lần lượt vượt qua các vòng vây của thủy trận sông Đà". Chính vì giữ được sự bình tĩnh nên ông có thể xử lí các tình huống nguy hiểm một cách tài tình, linh hoạt. Ông đã quen thuộc với dòng sông đến nỗi có thể "nắm chắc binh pháp của thần sông, thần núi…". Mỗi động tác chèo đò đều được người nghệ sĩ tài hoa thực hiện một cách chuẩn xác và cực kì điêu luyện "cưỡi đúng ngay trên bờm sóng luồng nước, phóng thẳng thuyền vào giữa thác…". Từ đó, ta thấy được ông lái đò là một người chiến sĩ dũng cảm, mưu trí và tài ba, là đối thủ đáng gờm, bất phân thắng bại của dòng sông Đà hung bạo bao nhiêu năm nay.
Sự gan dạ và tài hoa của ông lái đò còn thể hiện trong suy nghĩ và lối hành xử. Thường thường, ông không thích lái đò trên những khúc sông bằng phẳng. Ông nói "Chạy thuyền trên khúc sông không có thác, nó dễ dại tay dại chân và buồn ngủ". Quả thực, người nghệ sĩ thực thụ luôn luôn mong muốn tìm kiếm những thử thách trong công việc của mình. Ông thích chạy đò qua những khúc sông có nhiều ghềnh thác vì ông cảm nhận rằng "hết ghềnh thác, hình như sông Đà hết đậm đà với nhà đò". Nỗi niềm của người lao động là luôn luôn muốn mình sẽ để lại dấu ấn trong công việc. Ông lái đò cũng vậy, ông luôn muốn chiến đấu với dòng sông để được nó ghi nhớ. Thế nhưng, ông chỉ đơn thuần muốn được thử thách và ghi nhớ chứ không coi việc chiến thắng dòng sông như một chiến tích vì "ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà", "không có gì là hồi hộp, đáng nhớ". Có thể thấy rằng ông lái đò luôn luôn yêu mến, tự hào và đam mê với công việc của mình, dù nó đã gắn bó với ông suốt cả cuộc đời.
Trong công việc của mình, ông lái đò không chỉ làm công việc chèo đò chở khách, chở đồ vật qua sông như bình thường mà còn đóng vai một viên dũng tướng, một người nghệ sĩ tài hoa. Trong trận chiến với sông Đà, người lái đò như vị tướng dũng cảm, can trường, dám xông pha ra giữa trận mạc, sử dụng ý chí, sự khôn ngoan của mình để phá tan vòng vây của địch. Những cuộc chèo đò, vượt thác ghềnh của ông cũng đầy chất nghệ thuật, mang dấu ấn riêng của người lao động bình dị nhưng đầy ý chí. Không hề nhắc lại về chiến công sau cuộc vượt thác mà họ lại nhìn thử thách bằng góc nhìn rất thản nhiên, xem đó là công việc thường ngày phải trải qua trong cuộc sống mưu sinh. Ông chính là đại diện cho người dân Tây Bắc đang muốn đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước, là "thứ vàng mười" mà Nguyễn Tuân tìm kiếm.
Ông lái đò đã gắn liền cả cuộc đời mình với sông nước. Ông chính là bậc thầy trong công việc của mình, là người kiên cường, dũng cảm, là viên dũng tướng hiếm hoi dám đối mặt với dòng sông Đà hung bạo. Đến tận ngày nay, thứ "vàng mười" trong tâm hồn, phẩm chất của ông lái đò vẫn còn nguyên giá trị. Những người như ông lái đò vẫn luôn âm thầm lao động hằng ngày để cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Hình tượng người lái đò qua bài tùy bút Người lái đò sông Đà đã được nhà văn Nguyễn Tuân khắc họa rất đặc sắc, độc đáo. Em có thể tham khảo các bài văn mẫu khác trên Taimienphi.vn như: Cảm nhận về hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác; Đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trong tùy bút Người lái đò sông Đà; Phân tích vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con Sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà.
Cái nhan đề Người lái đò sông Đà ùa vào ta một liên tưởng kép: Nguyễn Tuân xưng tụng ông lái đò tài hoa trí dũng trên dòng sông thiên nhiên bạo liệt, còn ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông lái bậc thầy con thuyền chữ trên một dải sông văn không kém thác ghềnh.
Thì chính Nguyễn Tuân đã hạ bút ngay từ khúc dạo đầu: "Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu" (Mọi con sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà ngược bắc). Câu đề từ của Nguyễn Tuân vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà, vừa tóm luôn cái thần chữ của mình. Một mặt bắc lưu là sự cưỡng lại đông tẩu, cái riêng độc đáo là sự cưỡng lại sức xói mòn của cái chung nhàm cũ. Mặt khác, bắc lưu chỉ tồn tại trước đông tẩu, cái riêng độc đáo chỉ tồn tại trước cái chung khi nó đồng nghĩa với cái cao hơn sự khác lạ là cái sáng tạo (tức là cái độc đáo phải trở thành cái riêng mang giá trị). Phi giá trị, cái riêng hóa trò chơi duy mĩ. Đó là nguyên tắc của phép lạ hóa văn chương, để vừa chối bỏ sự nhàm lặp của cái chung, vừa hội nhập với cái chung mang giá trị văn chương bền vững. Còn nguyên tắc riêng của phép lạ hóa ngôn ngữ Nguyễn Tuân? Trong kho từ vị Việt, ngôn ngữ mang bản tính nguyên thủy của một vật liệu tĩnh, lạnh, khá ổn định. Tài năng nghệ sĩ là biết vung cây gậy thần biến nó thành chất liệu động và nóng, phập phồng sự sống. Nổi trội trong các tài năng, văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng giẫy sự sống. Có thể coi bài kí sông Đà này là cuộc thí nghiệm tâm đắc của ngôn ngữ nóng Nguyễn Tuân.
Đầu tiên, sức nóng ngôn ngữ Nguyễn Tuân cũng tìm được một đối tượng "nóng": sông Đà. Con sông độc lạ ấy thật thích hợp với một ngòi bút độc lạ. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức dậy, tưới linh hồn vào nó, và ông khai sinh dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên đủ in luôn tính nết vào đó: "hung bạo và trữ tình". Nếu chỉ có một vế, con sông sẽ lười nhác trong đơn giản. Tính cách sông Đà phải là một hệ thống những phẩm chất đối chọi nhau như nước với lửa, và phải từ những nghịch lí nghịch âm ấy, con sông mới có điều kiện phô bày hết vẻ phức tạp phong phú, đầy hấp dẫn của mình.
Đầu tiên là con thác - tâm điểm dữ dội của sông Đà. Nước dữ, đã đành. Đá cũng dữ. Đúng ra là do đá dữ mà nước dữ. Vậy thì cần phải dựng đá dậy cho lộ bản chất của nó ra. Và Nguyễn Tuân hạ một so sánh đắc địa: "Một hòn (đá) ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến". Trong công thức A = B của so sánh, cái độc lạ của Nguyễn Tuân chủ yếu tỏa sắc ở vế B. Trong câu văn trên, ông chêm động từ hất hàm vào B để mang đến cho nó một năng lượng sống, đủ khả năng truyền hồn vào đá vô tri, rọi một cái nhìn đậm tính điêu khắc vào thói du côn của thiên nhiên man dại. Nhưng gây cảm giác "chết người" nhất là cái hút nước. Nguyễn Tuân tả hình ảnh những cái thuyền bị dòng sông nuốt vào bụng, gợi cảm giác lạnh người: "Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Người ta nói văn Nguyễn Tuân là thứ văn ham cảm giác mạnh, có lẽ vì thế mà cái hút nước hiểm nguy kia trở thành một đam mê dưới ngòi bút của ông. Ông tiếp tục gây áp lực lên hệ thần kinh người đọc bằng cách bắt họ phải tự "chiêm nghiệm" cái cảm giác lạ lùng này: "Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà, - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đành phèn". Hình ảnh những cái thuyền bị cái hút nước nuốt chửng, hình ảnh cái hút nước như một cái giếng xây bằng nước sông đang xoay tít... tạo nên ở người đọc một cảm giác hình hết sức mạnh mẽ. Họ bị đặt vào trong cuộc, và cảm thấy bối rối vì khó bứt thoát khỏi những ám ảnh đầy ma lực mà ngôn từ Nguyễn Tuân truyền tới họ. Và đọng lại cuối cùng trong lòng người đọc là một sông Đà được nhìn như một hung thần, gây cảm giác hãi hùng về cuộc quyết đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra nơi đây hàng bao thế kỉ.
Cảm giác hình gắn với cảm giác âm nên ám ảnh của văn Nguyễn Tuân càng mạnh. Ở đây, người đọc lại hứng khởi nhận ra một đặc điểm khác của văn Nguyễn Tuân: những câu văn của ông thường liên kết trong một tính liên hoàn giàu giá trị thẩm mĩ, có khả năng thôi miên người đọc trong một chuỗi dây chuyền liên tưởng ngỡ như vô tận. Tả cái thác nước, Nguyễn Tuân viết: "Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Đúng là một cảnh tượng man rợ như thời tiền sử. Để dò hết năng lượng thẩm mĩ của câu văn, liên tưởng của người đọc phải nối nhau trong cơ chế ba chặng: tiếng thác (rống) - tiếng trâu mộng (lồng lộn) - tiếng rừng lửa (gầm thét). Liên tưởng của Nguyễn Tuân rất lạ: âm thanh thác được động vật hóa thành tiếng gầm "trâu mộng", nhưng cao tay nhất là lấy tháclửa (hỏa) gây một bất ngờ thẩm mĩ. Sức mạnh hoang dã của thiên nhiên qua miêu tả của Nguyễn Tuân, cứ như một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Nguyễn Tuân còn chạm bút tới cái hút nước một lần nữa: "nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Hai chữ "ặc ặc" mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông Đà như loài thủy quái bị bóp cổ đang quằn quại.
Mặt thứ hai của sông Đà là trữ tình. Để lột tả đặc tính này của sông Đà, Nguyễn Tuân rất tâm đắc với những so sánh. Mỗi so sánh chứa đựng một góc nhìn độc đáo, đầy tính phát hiện của nhà văn trước đối tượng thẩm mĩ của mình. Sông Đà như loài thủy quái với những nanh vuốt nơi mặt ghềnh, hút nước và thạch trận dữ hiểm, được nhà văn ví như "kẻ thù số một" của con người. Song những so sánh đam mê nhất của Nguyễn Tuân là dành cho một Đà giang trữ tình: "Cái dây thừng ngoằn ngoèo" dưới chân người ngồi trên tàu bay nhìn xuống, cái "áng tóc trữ tình (...) ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân"; rồi lại "như một cố nhân" trong nỗi niềm du khách, như "cái miếng sáng lóe lên" trong trò chiếu gương con trẻ, như "một bờ tiền sử", như "một nỗi niềm cổ tích ngày xưa"... Những so sánh biến hóa không trùng lặp, luôn gây men bằng những đột ngột, người đọc sửng sốt vì những so sánh lạ lẫm, gây đứt quãng liên tưởng, để rồi thán phục nhận ra không thể so sánh hay hơn, đúng hơn, và cứ thế bị thôi miên vào mê hồn trận của những so sánh ăm ắp tràn bờ...
Vẻ đẹp ngôn ngữ Nguyễn Tuân không đơn thuần là thứ trời cho. Nhà văn phải lao động cật lực, trong đó có khổ công quan sát. Liệu đã mấy ai đủ công phu quan sát những biến đổi tinh vi đến thế của sông Đà, với mùa xuân thì "dòng xanh ngọc bích" mùa thu thì "lừ lừ chín đỏ", giữa hai mùa ấy là cái "màu nắng tháng ba Đường thi"... Sông Đà giàu ám ảnh trở thành nỗi nhớ thật da diết của con người.
Một sông Đà góc cạnh như thế ắt cần một đối tượng giao tiếp tương xứng cỡ ông lái đò. Hình như Nguyễn Tuân tô đậm sức hấp dẫn của sông Đà là để ngầm đề cao chính ông lái đó tài ba, nghệ sĩ này chăng. Để tiếp ông khách không vừa này, sông Đà "bày thạch trận trên sông" với một thế trận bài bản theo kiểu binh pháp Tôn Tử: nào là cửa tử, cửa sinh, đánh vu hồi, đánh du kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà... Sông Đà còn lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo lược và sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con người. Ông lái đò thì nhỏ bé nhưng lại sừng sững hiện lên như một viên tướng trí dũng song toàn trước con thủy quái khổng lồ kia, với tư thế của kẻ đã nắm chắc "binh pháp của thần sông thần đá". Để miêu ta cuộc giao tranh giữa người và thác dữ, Nguyễn Tuân có ngón chơi động từ độc đáo. Trong dăm trang kí, ông tốc tới ngót 300 động từ để đủ sức ganh tài cùng con nước cuồng nộ Đà giang và trí lực ông lái phi thường. Tần số động từ đậm đặc nhất là ở trường đoạn hỗn chiến giữa người và sông nước, khiến người đọc nghẹt thở. Cơn cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ sông Đà: "rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, đội, túm, lật ngửa, bóp chặt... Phía ông lái, động từ cũng hợp sức tạo nên thế cưỡi hổ tung hoành: nắm chặt, ghì cương, bám chắc, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đôi, phóng thẳng, chọc thủng... Hai hệ thống động từ đối chọi, tương phản gay gắt, nhưng đọc kĩ, vẫn thấy nổi lên thế chủ động, thế lấn lướt của ông lái đò. Hãy xem tiếp động từ phát huy sức mạnh như thế nào trong đoạn văn sau đây của Nguyễn Tuân: "Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghi cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn mày, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến...". Quả là một bức tranh chiến trận hào hùng, ngôn ngữ Nguyễn Tuân hả hê tụng ca con người trong cuộc quyết đấu với thiên nhiên để giành sự sống.
Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa. Nàng văn của ông thật quảng giao đón du khách từ bốn phương trời kiến thức: lịch sử, địa lí, quân sự, võ thuật, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc... Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng. Có thể coi Nguyễn Tuân là người đã nắm vững "binh pháp của ngôn ngữ". Với một ý thức ngôn từ mới mẻ, hiện đại, Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ, chữ truyền hồn cho dòng sông, và dòng sông truyền xúc cảm vào người đọc.
Song luận gì về Nguyễn Tuân cũng chớ quên văn ông không chỉ là tòa lâu đài chữ nghĩa mà còn là bể thẳm tâm hồn. Nhiều người từng than phiền văn Nguyễn Tuân cầu kì, rắc rối. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân tự nhận xét: "Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Đọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không bướng bỉnh sao được" (Đôi tri kỉ gượng). Nay ngôn ngữ Nguyễn Tuân là ngôn ngữ của một công dân đầy trách nhiệm trước một nước Việt Nam mới. Ông lái Nguyễn Tuân đã chở con đò chữ không chỉ bằng bàn tay khéo dùng từ, đặt câu mà còn bằng tình yêu tha thiết thiên nhiên và con người lao động xây dựng cuộc đời. Xin chiêm ngưỡng tấm lòng thơ của nhà văn ẩn trong câu văn òa ập nỗi niễm này: "Nói chuyện với người lái đò, như càng lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước".
Trên đây là bài văn Hình tượng người lái đò sông đà bài tùy bút Người lái đò Sông Đà, các bạn có thể tham khảo thêm khảo nhiều bài văn khác liên quan tới tác phẩm để trau dồi cách viết, hiểu bài hơn:
- Phân tích Người lái đò sông đà
- Sơ đồ tư duy Người lái đò sông đà