Cảm nhận truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hay nhất chọn lọc

Đề bài: Cảm nhận truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Nội dung bài viết:
I. Dàn ý.
II. Văn mẫu.
  1. Bài mẫu số 1.
  2. Bài mẫu số 2.

Cảm nhận truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
 

I. Dàn ý Cảm nhận truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ngắn gọn


1. Mở bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm.


2. Thân bài

a. Hoàn cảnh cuộc đời của Mị:
- Mị là một cô gái xinh đẹp, trẻ tuổi, lại có tài thổi sáo, có riêng cho mình một mối tình đẹp với một chàng trai trẻ trong làng.
- Mị là con gái nhà nông, lại nghèo khó nên thành thử ra Mị có sẵn trong mình tính cần cù, chịu khó.
- Khi nhà thống lý Pá Tra đòi bắt Mị làm con dâu gán nợ, Mị đã kiên quyết phản đối, nàng tự tin rằng bản thân mình có thể trồng bắp, trồng sắn trả nợ thay cho cha, chứ không muốn về làm dâu nhà giàu, không muốn sống cuộc đời mất tự do.
- Thế nhưng vẫn bị người nhà thống lý Pá Tra bắt về làm dâu, làm vợ A Sử, để trả món nợ truyền kiếp thay cha.
- Phải nai lưng ra làm lụng như một nô lệ, vì khổ sở quá Mị đã bỏ trốn về nhà, khóc lóc với cha, rồi định ăn lá ngón để chết quách đi cho đỡ khổ. Thế nhưng vì thương cha vì chữ "hiếu" nặng trên đôi vai Mị buộc phải quay về tiếp tục làm kiếp con dâu gán nợ, sống còn không bằng một con gia súc trong nhà.

b. Nỗi đau đớn của Mị với kiếp làm dâu gạt nợ:

* Thể xác:
- Mị trở nên chai lì, cứ lầm lũi như một con rùa trong xó cửa, toàn bộ suy nghĩ của Mị không có gì ngoài việc đi làm và không còn một tia tha thiết nào khác.
- Là một cỗ máy lao động biết nói, có chân có tay, thậm chí còn chẳng được sống như một con trâu con bò.

* Tâm hồn:
- Không có niềm vui giao tiếp, niềm vui sống cuộc đời của một người phụ nữ trẻ đẹp, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đầu cúi xuống, thậm chí gần như Mị đã quên mất cả khả năng nói chuyện.
- Bị mất tự do, thật không khác nào một kẻ tù chung thân, với căn buồng có cái lỗ vuông bé bằng bàn tay, "lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng".

c. Sự hồi sinh của Mị:
- Âm thanh của sự sống đã đánh thức trong tâm hồn Mị những niềm vui sống, những ký ức tươi đẹp: Tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân réo rắt, thúc giục, rộn ràng.
- Mị từ một người gần như chẳng thiết tha gì đến nói năng, thờ ơ với tất cả mọi thứ, nay lại nhẩm hát theo tiếng sáo. Mị vẩn vơ nghĩ về những ngày còn ở nhà với cha.
- Mị uống rượu, Mị "uống ừng ực từng bát", thổi lá
- Mị muốn đi chơi, "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết".
- A Sử về thấy Mị muốn đi chơi, A Sử túm tóc Mị, rồi trói chặt nàng và cây cột trong buồng, Mị ngẩn ngơ nghĩ về việc trong nhà này trước đây cũng từng có người đàn bà bị trói như thế này cho đến chết.
=> Sợ chết, cái nỗi đau siết da siết thịt bộc lộ rõ một điều rằng Mị còn tha thiết với cuộc đời này lắm, Mị không muốn chết trong nhà này, Mị đã hoàn toàn sống lại một cách trọn vẹn cả về thể xác lẫn tinh thần.

d. Bước ngoặt lớn trong cuộc đời của Mị:
- Mị chứng kiến tất cả mọi việc, cũng hiểu cho cái nỗi đớn đau bất hạnh của A Phủ nhưng vì bản thân Mị cũng bất lực trước số phận nên đành thờ ơ xem như không thấy.
- Khi Mị trông thấy "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" của A Phủ, thì lòng Mị bỗng nổi lên những sóng gió:
+ Mị thấy căm giận, phẫn nộ, sao những kẻ trong nhà này lại tàn ác đến vậy chúng nó trói chết đàn bà trong nhà này, trói chết Mị thì cũng đành, bởi lẽ Mị đã trình ma nhà nó rồi.
+ Xót thương cho người đàn ông chỉ vì mất một con bò mà bắt người ta phải trả giá bằng mạng sống.
=> Thật bất công và đáng căm hận, Mị muốn làm gì đó để cứu A Phủ.

- Dù sợ hãi, Mị vẫn rón rén cầm dao cắt thừng trói A Phủ rồi thì thào nhan hai tiếng "đi đi", giải thoát cho một con người đáng thương, đáng sống.
- Tận mắt trông thấy một người đã cạn kiệt sức lực,chỉ trực sụp xuống vậy mà vẫn cố lấy hết sức bình sinh chạy, lăn xuống sườn đồi => Mị nhận ra Mị đã giải thoát cho người ta, thì Mị cũng có thể tự cứu lấy mình chứ, thế rồi không chần chừ Mị cũng chạy theo A Phủ.
- Câu nói "Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất" chính là minh chứng rõ nét về ý thức của Mị về cuộc đời bế tắc của mình ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ sức sống tiềm tàng mãnh liệt, niềm khao khát tự do mạnh mẽ, sức phản kháng dữ dội đến từ những con người ở tận cùng đau khổ, đang bị cường quyền và thần quyền chèn ép.


3. Kết bài

Nêu cảm nhận.


II. Bài văn mẫu Cảm nhận truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hay nhất

 

1. Bài văn Cảm nhận truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài siêu hay số 1

1.1. Dàn ý Cảm nhận Vợ chồng A Phủ siêu hay:
1.1.1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài
- Giới thiệu chung về tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" 
1.1.2. Thân bài:
1.1.2.1. Nội dung tác phẩm:
a) Số phận con người bị áp bức, bóc lột trong chế độ phong kiến miền núi: 
* Nhân vật Mị: 
- Hoàn cảnh xuất thân của Mị: bố Mị nợ tiền nhà thống lí Pá Tra, đã trả cả đời nhưng vẫn không trả hết, thống lí bèn bắt Mị về làm dâu gạt nợ.
- Nỗi đau khi phải về làm dâu gạt nợ:
+ Bị bắt và cúng trình ma trong hoàn cảnh bất ngờ khiến cô không kịp phản kháng.
+ Tuy muốn tự vẫn để thoát khỏi cảnh khổ nhưng không thành vì nếu cô chết bố cô cũng vẫn phải tiếp tục trả nợ
+ Bị bóc lột sức lao động, phải làm lụng quanh năm, không lúc nào được ngơi nghỉ.
+ Giữa Mị và A Sử không có tình yêu nên cô thường xuyên bị chồng đánh đập.
=> Cô đã quá tuyệt vọng với cuộc sống như vậy. Không thể phản kháng, Mị đành biến mình thành con người lãnh đạm, vô cảm, không quan tâm đến cuộc sống xung quanh. 
* Nhân vật A Phủ: 
- Hoàn cảnh xuất thân của A Phủ:
+ A Phủ là người nơi khác, cả nhà bị bệnh đậu mùa mà chết. A Phủ bị người ta bắt đem đi đổi lấy thóc. A Phủ trốn đến Hồng Ngài, đi làm cho nhà người -> Tuy vất vả nhưng A Phủ được tự do, tự nuôi sống bản thân.
+ A Phủ to lớn, biết làm rất nhiều việc, chạy nhanh như ngựa -> Là người chăm chỉ, thạo việc, nhanh nhẹn, giỏi giang. 
+ Nhiều người con gái trong làng mê A Phủ nhưng không ai dám lấy chàng vì hoàn cảnh nghèo khó.
+ Ngày xuân, A Phủ cũng vẫn đi chơi cùng đám bạn, đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. 
=> A Phủ là chàng trai khỏe mạnh, tự do, chăm chỉ. Tuy nghèo nhưng vẫn luôn có khát vọng về cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc. 
- Bi kịch của A Phủ: 
+ Vì đánh nhau với A Sử mà A Phủ bị làng phạt vạ, phạt tiền. Vì không có tiền nên phải đi ở thuê cho nhà thống lí Pá Tra -> Bị cường quyền, thần quyền ép buộc, mất đi tự do.
+ Bị nhà thống lí bóc lột sức lao động, việc gì A Phủ cũng làm: "đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa,...".
+ Lỡ để hổ ăn mất bò, A Phủ bị phạt trói đứng vào cột, bị dây mây quấn từ đầu tới vai -> Nếu không bắn được hổ, anh sẽ phải chết như thế.
+ "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" -> Sự đau đớn, tuyệt vọng, chán nản đến cùng cực của A Phủ
=> Cuộc đời con người khỏe mạnh, chăm chỉ không đáng giá bằng một con bò => Sự rẻ mạt, coi thường con người trong chế độ thực dân phong kiến ở vùng núi Tây Bắc. 
b) Sức sống tiềm tàng của các nhân vật trong truyện: 
* Sức sống tiềm tàng của Mị
- Trong đêm tình mùa xuân: 
+ Tiếng sáo gọi bạn và men rượu đã làm sống dậy những kí ức xưa cũ. Ngày xưa, cô cũng từng là cô gái xinh đẹp nhất bản, trai đứng thổi kèn, sáo xung quanh nhà. 
+ Mị bỗng thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi. 
+ Cô đang chuẩn bị sửa soạn đi chơi thì A Sử thấy. Hắn không cho cô đi nên trói đứng cô vào cột. Bị dây đay siết chặt, tóc bị quấn quanh cột khiến Mị đau đớn nhưng tâm hồn cô vẫn đi theo tiếng sáo. 
=> A Sử chỉ trói được cơ thể Mị chứ không thể trói được tâm hồn Mị. Sức sống vừa trỗi dậy đã bị dập tắt nhưng đó chính là tiền đề cho những lần phản kháng sau.
- Trong cảnh cắt dây cởi trói
+ Trước khi nhìn thấy "giọt nước mắt" của A Phủ: Mị thản nhiên, thờ ơ bên đống lửa, coi như không thấy A Phủ.
+ Khi Mị thấy "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ, Cô nhớ lại đêm bị  A Sử trói -> Lòng đồng cảm xuất hiện. Cô  nhận ra sự độc ác, bất công của nhà thống lí rồi lại thương A Phủ.
+ Mị nhớ lại đời mình, nghĩ rằng mình sẽ bị trói thay A Phủ và chết trên cái cọc ấy nhưng cô không sợ -> Từ thương bản thân mình, Mị đã thương cả người khác.
=> Tình yêu thương người đồng cảm ngộ và căm ghét bọn thống lí đã quay trở lại trong con người Mị -> Cô không còn lạnh lùng, vô cảm nữa.
- Hành động cởi trói được diễn ra rất nhanh:
+ Sợi dây mây cũng như sợi dây cường quyền trói buộc Mị và A Phủ. Sau khi cắt nó đi, họ cũng đã tự giải thoát cho bản thân.
+ Thể hiện rõ sự thay đổi mạnh mẽ trong sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. 
- Hành động chạy theo A Phủ: Tự giải thoát mình khỏi sự bóc lột của cường quyền, thần quyền. 
* Sức sống tiềm tàng của A Phủ: 
- Sau nhiều ngày bị trói, không được ăn uống, A Phủ đã cảm thấy kiệt sức, không còn đủ tỉnh táo để nhận thức bất cứ điều gì.
- "Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy." -> Sức sống tiềm tàng trong con người A Phủ. Dù đã kiệt sức nhưng vì một hi vọng sống, anh lại lấy hết sức để chạy đi, trốn thoát khỏi chốn đau khổ làm còn người trở nên tàn tạ, kiệt quệ.
- A Phủ chấp nhận Mị, đưa cô đi cùng -> Lòng đồng cảm với những mảnh đời giống mình -> Sự gắn bó, đoàn kết của những người đồng cảnh ngộ, cùng giúp nhau vượt qua khó khăn, nắm lấy tự do.
- Khi trốn lên Phiềng Sa, hai người cùng nhau làm ăn, dựng nhà, giác ngộ cách mạng -> Cuộc sống hạnh phúc, bản lĩnh và ý chí kiên cường của những con người miền núi Tây Bắc. 
c) Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, tươi đẹp, rực rỡ cùng cùng nét văn hóa địa phương:
- Khung cảnh: "Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa đã gặt xong", "những lều canh nương", "mưa xuân", "gió thổi cỏ gianh vàng ửng".
- Chiếc váy hoa của người con gái được đem ra phơi trên những mỏm đá xòe ra như con bướm sặc sỡ. 
- Trò chơi quay, đánh pao; tiếng sáo gọi bạn tình vui tươi, rộn rã. 
1.1.2.2. Giá trị của tác phẩm:
a) Giá trị hiện thực:
- Mô tả lại cuộc sống hiện thực của những người dân vùng núi Tây Bắc, họ bị bóc lột một cách vô lí, bị đánh đập tàn nhẫn, không được thực hiện quyền con người.
- Tố cáo, vạch trần chế độ phong kiến miền núi đầy đọa con người, khiến họ rơi vào cảnh muốn chết mà không chết được, chỉ có thể làm trâu làm ngựa phục vụ cho bọn nhà giàu. 
- Phê phán những hủ tục như "cúng trình ma", "phạt vạ", sự biến tướng của tục "cướp vợ" đã giam hãm con người,  khiến họ không có quyền lựa chọn cuộc sống của mình. 
b) Giá trị nhân đạo:
- Tác phẩm là tiếng nói cảm thông của tác giả dành cho những số phận phải chịu nhiều bất công, cay đắng như Mị, như A Phủ.
- Đồng thời, nhà văn cũng ngợi ca những con người tuy sống trong cảnh tăm tối nhưng vẫn luôn hướng về ánh sáng, có khát vọng tự do mãnh liệt rồi biến nó thành hành động, tự vùng lên giải thoát bản thân, xây dựng cuộc sống mới như Mị và A Phủ.
- Lên án, tố cáo mạnh mẽ chế độ cường quyền và thần quyền đã chà đạp, giam hãm con người trong cuộc sống tù túng, bóc lột sức lao động và tước đoạt quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân. 
1.1.2.3. Nghệ thuật của tác phẩm:
- Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cực kì hấp dẫn. Chỉ cần thông qua những cử chỉ, hành động, nét mặt cơ bản, tác giả đã cho người đọc thấy sự đối lập giữa thái độ bên ngoài và sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ bên trong nhân vật. 
- Nghệ thuật trần thuật đặc sắc, các đoạn văn giữa hiện tại và quá khứ của nhân vật được linh hoạt đan xen mà không gây khó chịu cho người đọc.
- Sử dụng từ ngữ giản dị, phù hợp với bối cảnh miền núi mà tất cả người đọc đều hiểu và thấm thía được ý nghĩa của câu chuyện.
1.1.3. Kết bài:
- Khái quát lại về cảm nhận sau khi đọc xong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ".

1.2. Bài mẫu Cảm nhận Vợ chồng A Phủ chọn lọc hay nhất:

Tô Hoài là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú. Ông đã viết rất nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau. Nhưng trong số đó, có một tác phẩm đã được dựng thành phim, đó chính là truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" được in trong tập "Truyện Tây Bắc". "Vợ chồng A Phủ" là một tác phẩm đặc sắc khiến cho bất cứ ai đọc được đều ấn tượng mãi. 

Tác phẩm kể về lấy bối cảnh ở miền núi Tây bắc trong những năm trước Cách mạng. Người dân nơi đây vẫn còn phải chịu sự áp bức bóc lột của chế độ phong kiến miền núi. Thế nhưng, họ đã biết vùng lên, tự giải thoát cho mình khỏi cuộc đời đó. Hai nhân vật chính trong truyện là Mị và A Phủ. Mị là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Cô bị bắt và bị mang đi cúng trình ma trong hoàn cảnh bất ngờ, không thể phản kháng. Tuy Mị muốn tự vẫn để thoát khỏi cảnh khổ nhưng không thể được vì nếu cô chết bố cô cũng vẫn phải tiếp tục trả nợ. Vậy nên Mị đành ở nhà thống lí, chịu cảnh bị bóc lột sức lao động, phải làm lụng quanh năm, không lúc nào được ngơi nghỉ. Hơn nữa, giữa Mị và A Sử không có tình yêu nên cô thường xuyên bị chồng đánh đập. Cô đã quá tuyệt vọng với cuộc sống như vậy, không thể phản kháng, không thể chết, Mị đành biến mình thành con người lãnh đạm, vô cảm, không quan tâm đến cuộc sống xung quanh. 

A Phủ là người làng khác. Anh mồ côi cha mẹ và đến Hồng Ngài làm thuê để tự nuôi sống bản thân. A Phủ to lớn, biết làm rất nhiều việc, chạy nhanh như ngựa nên có nhiều người con gái trong làng mê. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh nghèo khó nên không ai dám lấy A Phủ. Ngày xuân, anh chẳng có gì nhưng cũng vẫn đi chơi cùng đám bạn, đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. A Phủ là chàng trai khỏe mạnh, tự do, chăm chỉ. Tuy nghèo nhưng anh vẫn luôn có khát vọng về cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc. Thế nhưng, trong một lần đánh nhau với A Sử mà A Phủ bị làng phạt vạ. Vì không có tiền, anh phải làm người ở không công cho nhà thống lí Pá Tra. Từ đây, cuộc đời anh đã bị cường quyền, thần quyền giam hãm, ép buộc, mất đi tự do. A Phủ cũng bị nhà thống lí bóc lột sức lao động, việc gì anh cũng phải làm: "đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa,...". Một lần, lỡ để hổ ăn mất bò, A Phủ bị phạt trói đứng vào cột, bị dây mây quấn từ đầu tới vai. Nếu không bắn được hổ, anh sẽ bị trói như thế đến chết. Từ đây, ta cảm thấy căm phẫn khi giá trị của một con người cũng không bằng một con bò. 

Thế nhưng, những con người sinh ra trong vùng núi hùng vĩ ấy không hề chịu khuất phục. Trong mỗi người vẫn luôn ẩn chứa sức sống tiềm tàng, chờ thời cơ để vùng lên giành lấy tự do. Đó chính là hình ảnh của Mị trong đêm tình mùa xuân, trong cảnh cắt dây cởi trói chạy trốn của Mị và A Phủ. Trong đêm tình mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn và men rượu đã làm sống dậy những kí ức xưa cũ của Mị. Ngày xưa, cô cũng từng là cô gái xinh đẹp nhất bản, trai đứng thổi kèn, sáo xung quanh nhà. Nghĩ thế, Mị bỗng thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Cô đang chuẩn bị sửa soạn đi chơi thì A Sử thấy. Hắn trói đứng cô vào cột. Bị dây đay siết chặt, tóc bị quấn quanh cột, Mị đau đớn vô cùng. Thế nhưng tâm hồn cô vẫn đi theo tiếng sáo. A Sử chỉ trói được cơ thể Mị chứ không thể trói được tâm hồn Mị. Sức sống vừa trỗi dậy đã bị dập tắt nhưng đó chính là tiền đề cho những lần phản kháng sau.

Khi Mị nhìn thấy A Phủ bị trói, cô còn rất thản nhiên, thờ ơ ngồi bên đống lửa, coi như không thấy A Phủ. Thế nhưng, Mị bỗng thấy "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ, cô nhớ lại đêm mình bị A Sử trói. Lòng đồng cảm xuất hiện trong lòng cô. Cô nhận ra sự độc ác, bất công của nhà thống lí rồi lại thương A Phủ. Mị nhớ lại đời mình, nghĩ rằng mình sẽ bị trói thay A Phủ và chết trên cái cọc ấy nhưng cô không sợ. Từ thương bản thân mình, Mị đã thương cả người khác. Tình yêu thương người đồng cảm ngộ và căm ghét bọn thống lí đã quay trở lại trong con người Mị. Cô không còn lạnh lùng, vô cảm nữa mà quyết định cởi trói giải thoát cho A Phủ. Hành động cởi trói được diễn ra rất nhanh. A Phủ sau nhiều ngày bị trói, không được ăn uống, anh không còn đủ tỉnh táo để nhận thức bất cứ điều gì. "Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy". Chi tiết này cho người đọc thấy sức sống tiềm tàng trong con người A Phủ. Dù đã kiệt sức nhưng vì một hi vọng sống, anh lại lấy hết sức để chạy đi, trốn thoát khỏi chốn đau khổ làm còn người ta tàn tạ, kiệt quệ. Sợi dây mây trói A Phủ cũng như sợi dây cường quyền trói buộc Mị và A Phủ. Sau khi cắt nó đi, họ đã tự giải thoát cho bản thân khỏi sự bóc lột của cường quyền, thần quyền. Khi trốn lên Phiềng Sa, hai người cùng nhau làm ăn, dựng nhà, giác ngộ cách mạng, cùng nhau xây dựng cuộc sống mới đầy hạnh phúc. 

Ngoài số phận con người, khung cảnh vùng núi Tây Bắc cũng được hiện lên vô cùng sinh động dưới ngòi bút của nhà văn Tô Hoài: "Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa đã gặt xong", "những lều canh nương", "mưa xuân", "gió thổi cỏ gianh vàng ửng". Đây quả thực là bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ lại vừa tươi đẹp, rực rỡ. Những phong tục độc đáo của người dân địa phương như trò chơi quay, đánh pao; tiếng sáo gọi bạn tình vui tươi, rộn rã ngày xuân cũng khiến cho câu chuyện trở nên đầy màu sắc, chân thực và mang đậm phong vị dân tộc. 

Trong truyện ngắn, nhà văn đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cực kì hấp dẫn. Chỉ cần thông qua những cử chỉ, hành động, nét mặt cơ bản, tác giả đã cho người đọc thấy sự đối lập giữa thái độ bên ngoài và sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ bên trong nhân vật. Nghệ thuật trần thuật trong truyện cũng khá đặc sắc. Các đoạn văn giữa hiện tại và quá khứ của nhân vật được linh hoạt đan xen mà không gây khó chịu cho người đọc. Tô Hoài cũng rất tinh tế khi lựa chọn sử dụng từ ngữ giản dị, phù hợp với bối cảnh miền núi để tất cả người đọc đều hiểu và thấm thía được ý nghĩa của câu chuyện.

Ngoài nội dung và nghệ thuật đặc sắc, thứ giúp cho truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" trở nên bất hủ chính là nhờ giá trị mà nó mang lại. Tô Hoài đã nêu lên hiện thực cuộc sống  của những người dân vùng núi Tây Bắc. Họ bị bóc lột một cách vô lí, bị đánh đập tàn nhẫn, không được thực hiện quyền con người. Ông cũng đã tố cáo, vạch trần chế độ phong kiến miền núi đầy đọa con người, khiến họ rơi vào cảnh muốn chết mà không chết được, chỉ có thể làm trâu làm ngựa phục vụ cho bọn nhà giàu. Đồng thời, ông cũng phê phán những hủ tục như "cúng trình ma", "phạt vạ", sự biến tướng của tục "cướp vợ" đã giam hãm con người,  khiến họ không có quyền lựa chọn cuộc sống của mình. Ngoài ra, tác phẩm còn là tiếng nói cảm thông của nhà văn dành cho những số phận nhỏ bé, phải chịu nhiều bất công, cay đắng. Nhà văn cũng ngợi ca những con người tuy sống trong cảnh tăm tối nhưng vẫn luôn hướng về ánh sáng, có khát vọng tự do mãnh liệt rồi biến nó thành hành động, tự vùng lên giải thoát bản thân, xây dựng cuộc sống mới như Mị và A Phủ.

Từ những giá trị to lớn mình mang lại, tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" đã thoát ra khỏi dòng chảy của văn học, có đời sống riêng của mình. Mỗi thế hệ người Việt Nam sau khi đọc xong truyện ngắn này đều có thể hiểu hơn về thực tế cuộc sống của bà con đồng bào miền núi trên nền thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp của Tổ quốc. 

 - - - - - - - - - - - - - - - - - - -  HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Sau khi đọc xong Cảm nhận truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, hi vọng rằng em có thể nắm được nội dung, nghệ thuật và những giá trị mà tác phẩm mang lại. Trên Taimienphi.vn còn có rất nhiều bài  Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, Cảm nhận về nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Phân tích Giá trị nhân văn trong Vợ chồng A Phủ. Các em cũng đừng quên rèn luyện thêm các kĩ năng tóm tắt, viết đoạn văn ngắn như tóm tắt Vợ chồng A Phủmở bài Vợ chồng A Phủ để hoàn thiện hơn bài phân tích/cảm nhận về tác phẩm.

 

2. Bài văn Cảm nhận truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hay ngắn của học sinh giỏi số 2

Tô Hoài là một cây bút thực lực đầy sáng tạo và phong phú của nền văn học Việt Nam cả trước và sau cách mạng tháng tám, viết văn từ khi tuổi đời còn rất trẻ, đồng thời sớm trở nên nổi tiếng với các bộ truyện dành cho thiếu nhi. Sau khi tham gia vào cách mạng, Tô Hoài bắt đầu chú ý đến những vấn đề hiện thực xã hội và cuộc sống của con người trong những năm tháng đất nước quằn quại đau thương nhất. Tuy cùng viết về đề tài người nông dân dưới chế độ cũ, thế nhưng giọng văn của Tô Hoài có một cái gì đó rất khác, ngập tràn yêu thương và dịu dàng. Đi đến đâu Tô Hoài cũng có một lòng gắn bó tha thiết với từng mảnh đất và con người của quê hương, ngoài Hà Nội thì có lẽ miền Tây Bắc là nơi mà ông gửi gắm lại nhiều tình cảm yêu thương nhất. Điều đó được bộc lộ rõ nét thông qua bộ 3 truyện Tây Bắc, trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm được được biết đến nhiều hơn cả.

Viết về người nông dân nghèo khổ bị đàn áp dưới chế độ nửa phong kiến thực dân hay cụ thể hơn là viết về người phụ nữ nông dân với những cái khổ sở bao đời không phải là một chủ đề hiếm và có nhiều thứ để khai thác bởi lẽ hầu như những cây bút như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,... viết được gì đều đã viết cả rồi. Thế nhưng viết về người phụ nữ miền cao, chịu ách áp bức từ cả cường quyền lẫn thần quyền, cuộc đời không bằng con trâu con ngựa thì có lẽ là lần đầu tiên xuất hiện trên văn đàn Việt Nam và sớm nhất trên những trang văn của Tô Hoài. Vợ chồng A Phủ viết về một người phụ nữ có số phận bất hạnh, cũng là đại diện cho số phận khốn khổ của nhiều phụ nữ khác ở Hồng Ngài, ở vùng rừng núi Tây Bắc. Trước hết nói về xuất thân và hoàn cảnh của Mị, Mị là một cô gái xinh đẹp, trẻ tuổi, lại có tài thổi sáo, thổi lá, trai làng vì Mị mà đứng nhẵn hết cả một góc nhà cạnh đầu giường nơi Mị ngủ. Đồng thời cô cũng có riêng cho mình một mối tình đẹp với một chàng trai trẻ trong làng. Mị là con gái nhà nông, lại nghèo khó nên thành thử ra Mị có sẵn trong mình tính cần cù, chịu khó. Khi nhà thống lý Pá Tra đòi bắt Mị làm con dâu gán nợ, Mị đã kiên quyết phản đối, nàng tự tin rằng bản thân mình có thể trồng bắp, trồng sắn trả nợ thay cho cha, chứ không muốn về làm dâu nhà giàu, không muốn sống cuộc đời mất tự do. Thế nhưng cuộc đời của một cô gái có nhiều phẩm chất tốt đẹp lại dường như rơi vào một hố đen bế tắc, khi cô bị người nhà thống lý Pá Tra bắt về làm dâu, làm vợ A Sử, để trả món nợ truyền kiếp thay cha. Mang tiếng làm dâu nhà giàu nhưng Mị chẳng được sung sướng mà phải nai lưng ra làm lụng như một nô lệ, vì khổ sở quá Mị đã bỏ trốn về nhà, khóc lóc với cha, rồi định ăn lá ngón để chết quách đi cho đỡ khổ. Thế nhưng vì thương cha vì chữ "hiếu" nặng trên đôi vai Mị buộc phải quay về tiếp tục làm kiếp con dâu gán nợ, sống còn không bằng một con gia súc trong nhà. Vì đau đớn quá, vì cuộc đời sống không bằng chết, Mị trở nên chai lì, cứ lầm lũi như một con rùa trong xó cửa, toàn bộ suy nghĩ của Mị không có gì ngoài việc đi làm và không còn một tia tha thiết nào khác. Mị đâu chỉ phải về nhà A Sử để làm lụng trả nợ cho cha, mà Mị đã cúng trình ma nhà nó rồi, cái thần quyền đã vĩnh viễn trói chân Mị trong căn nhà lạnh lẽo và tàn khốc này, cướp hết những tự do và hạnh phúc mà Mị từng mong mỏi. Trong suốt những năm tháng sống tại nhà A Sử Mị tưởng mình đã chết rồi, tâm hồn Mị giờ chỉ còn là một nắm tro tàn nguội lạnh, đến nỗi cô tưởng mình chỉ là một cỗ máy lao động biết nói, có chân có tay, thậm chí còn chẳng được sống như một con trâu con bò. Bị giày vò cùng cực đến độ "ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Thậm chí còn Mị còn ý thức một cách đau đớn rằng "Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày". Không chỉ đau đớn về thể xác mà cái khổ của Mị còn đến từ những nỗi thống khổ trong tâm hồn, tại nhà thống lý Pá Tra, chính cái cuộc đời nô lệ đã không cho Mị được những niềm vui giao tiếp, niềm vui sống cuộc đời của một người phụ nữ trẻ đẹp. Người ta chỉ thấy Mị cặm cụi làm lụng như một cái máy, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đầu cúi xuống, thậm chí gần như Mị đã quên mất cả khả năng nói chuyện, bởi biết nói với ai. Không những thế cuộc đời Mị còn bị mất tự do, thật không khác nào một kẻ tù chung thân, với căn buồng có cái lỗ vuông bé bằng bàn tay, "lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng". Trong căn buồng của Mị, Mị không có được hạnh phúc của tình yêu, lại chịu cảnh đau đớn, tù túng, dần dà Mị buông tay tuyệt vọng, nghĩ rằng có lẽ cho đến hết đời mình sẽ chết ở đây thôi, chứ không còn cách nào khác. Mà một loạt những đau khổ của Mị đều xuất phát từ cái nghèo, từ cái món nợ truyền kiếp, từ cái phong kiến thần quyền, cường quyền đáng hận.

Những tưởng đời của Mị có lẽ sẽ đến ngày trăm năm mà không một đổi dời, đầy bế tắc, thế nhưng một điều kỳ diệu đã xảy đến, một âm thanh của sự sống đã đánh thức trong tâm hồn Mị những niềm vui sống, những ký ức tươi đẹp, đó là tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân réo rắt, thúc giục, rộn ràng. Nghe thấy những âm thanh trầm bổng ấy, Mị từ một người gần như chẳng thiết tha gì đến nói năng, thờ ơ với tất cả mọi thứ, nay lại nhẩm hát theo tiếng sáo. Hóa ra lòng Mị chưa chết hẳn, Mị vẫn còn ham vui, ham sống, yêu tha thiết tiếng sáo nhiều lắm, Mị vẩn vơ nghĩ về những ngày còn ở nhà với cha, tiếng sáo của Mị đã làm say lòng biết bao trai làng, Mị nhớ về tình yêu đã chết của mình. Biết bao nỗi nhớ, nỗi đau trào lên trong lòng Mị, thành thử Mị uống rượu, Mị "uống ừng ực từng bát", uống như thể muốn rửa trôi, muốn nuốt xuống bao nhiêu những uất ức đau đớn mà Mị phải gánh chịu suốt mấy năm trời đằng đẵng. Rồi Mị thổi lá, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo vậy. Đọc đến đây người ta đã không ngần ngại gì nữa mà khẳng định rằng tâm hồn Mị chưa bao giờ chết hẳn, nó chỉ cố bảo vệ mình bằng cách tạo ra một lớp vỏ sần sùi, khô cứng, chai lì mà thôi. Còn giờ đây, như tằm phá kén, Mị muốn đi chơi, Mị nghĩ một cách tích cực và hồn nhiên hơn bao giờ hết, Mị quên hẳn chuyện mình đang ở trong nhà thống lí, Mị thấy mình vẫn còn trẻ lắm, Mị muốn được chơi xuân, được hòa vào cái không khí rộn ràng, hạnh phúc và tự do mà bao người vẫn đang được hưởng. "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết". Nghĩ là làm, Mị đi vào căn buồng của mình, mặc chiếc váy hoa, vấn lại tóc, chuẩn bị cho chuyến đi chơi của mình. Thế nhưng thật không may, thật đau khổ thay, khi A Sử về thấy Mị muốn đi chơi, A Sử túm tóc Mị, rồi trói chặt chị và cây cột trong buồng, cắt đứt hết tất cả những niềm vui, những vọng tưởng tốt đẹp của Mị. Và cũng lại lúc này đây ta mới thấy được niềm khao khát sống của Mị nó mãnh liệt đến độ nào. Mị ngẩn ngơ nghĩ về việc trong nhà này trước đây cũng từng có người đàn bà bị trói như thế này cho đến chết, "Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau từng mảnh thịt". Cái sự sợ chết, cái nỗi đau siết da siết thịt bộc lộ rõ một điều rằng Mị còn tha thiết với cuộc đời này lắm, Mị không muốn chết trong nhà này, Mị đã hoàn toàn sống lại một cách trọn vẹn cả về thể xác lẫn tinh thần để chuẩn bị cho những bước ngoặt tiếp theo trong cuộc đời mình.

Bước ngoặt lớn trong cuộc đời của Mị đến từ cái số phận bất hạnh của A Phủ, một người đàn ông nghèo khó, bị bắt vạ mà cũng giống như Mị phải trở thành nô lệ, nai lưng ra làm lụng để trả cho bằng hết món nợ vô lý của mình. Thế rồi trong buổi chăn ngựa chăn bò, A Phủ lỡ làm mất một con bò, anh bị người ta trói đứng vào cái cột giữa sân, với một mệnh lệnh tàn ác: "Mày ra ngoài kia, lấy vào đây một cái cọc, một cuộn dây mây. Tao trói mày đứng chỗ kia. Bao giờ chúng nó bắn được con hổ về thì mày khỏi phải chết. Nếu không được con hổ thì tao cho mày đứng chết ở đấy". Mấy ngày liền người ta vẫn chẳng bắt được hổ, có lẽ A Phủ phải chịu cái chết ở ngay tại đây thôi, chết đói, chết rét, chết khát, ... dù gì cũng sẽ chết. Mị chứng kiến tất cả mọi việc, cũng hiểu cho cái nỗi đớn đau bất hạnh của A Phủ nhưng vì bản thân Mị cũng bất lực trước số phận nên đành thờ ơ xem như không thấy. Chỉ đến khi Mị trông thấy "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" của A Phủ, thì lòng Mị bỗng nổi lên những sóng gió, nó tựa như giọt nước tràn ly nhỏ vào trong tâm hồn đầy ăm ắp những nỗi căm hận của nàng. Mị thấy căm giận, phẫn nộ, sao những kẻ trong nhà này lại tàn ác đến vậy chúng nó trói chết đàn bà trong nhà này, trói chết Mị thì cũng đành, bởi lẽ Mị đã trình ma nhà nó rồi. Thế nhưng người đàn ông kia thì có tội tình gì, chỉ vì mất một con bò mà bắt người ta phải trả giá bằng mạng sống, kết thúc một cuộc đời đầy tương lai phía trước hay sao. Thật bất công và đáng căm hận, Mị muốn làm gì đó để cứu A Phủ, Mị chết cũng chẳng sao, nhưng Mị không muốn một con người khác cũng chết oan ức như Mị. Thế nên dù sợ hãi, Mị vẫn rón rén cầm dao cắt thừng trói A Phủ rồi thì thào nhan hai tiếng "đi đi", giải thoát cho một con người đáng thương, đáng sống. Tận mắt trông thấy một người đã cạn kiệt sức lực, chỉ trực sụp xuống vậy mà vẫn cố lấy hết sức bình sinh chạy, lăn xuống sườn đồi, đột nhiên Mị nhận ra điều gì đó. Phải rồi, Mị đã giải thoát cho người ta, thì Mị cũng có thể tự cứu lấy mình chứ, thế rồi không chần chừ Mị cũng chạy theo A Phủ. Câu nói "Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất" chính là minh chứng rõ nét về ý thức của Mị về cuộc đời bế tắc của mình ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ sức sống tiềm tàng mãnh liệt, niềm khao khát tự do mạnh mẽ, sức phản kháng dữ dội đến từ những con người ở tận cùng đau khổ, đang bị cường quyền và thần quyền chèn ép.

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một truyện ngắn xuất sắc, tiêu biểu nhất cho những tác phẩm viết về đề tài cuộc sống và con người ở miền núi rừng Tây Bắc những năm tháng cách mạng sôi nổi. Không chỉ phản ánh sự tàn ác của chính quyền tay sai, hủ lậu, mà quan trọng hơn còn bộc lộ được những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, sức sống, sự phản kháng mạnh mẽ ở những người nông dân nghèo khó, và mở ra cho họ một con đường sáng - đến với cách mạng.

----------------------HẾT------------------------

Bài viết là những cảm nhận chủ quan về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ xoay quanh nhân vật chính là Mị, để tìm hiểu sâu thêm về tác phẩm mời các em tham khảo các bài viết khác trên trang nhé.

Vợ chồng A Phủ là tác phẩm hay và đặc biệt quan trọng trong chương trình Ngữ văn 12, học kì II. Để có cái nhìn bao quát, tổng thể về văn bản, Taimienphi.vn mời em tham khảo bài mẫu Cảm nhận truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
Tóm tắt Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ngắn gọn, đầy đủ
Trong chuyện vợ chồng A Phủ của Tô Hoài vợ vủa A Phủ là gì?
Phân tích hành động cởi trói của Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài
Giá trị hiện thực, nhân đạo và nghệ thuật trong Vợ chồng A phủ của Tô Hoài
Mở bài truyện Vợ chồng A Phủ

ĐỌC NHIỀU