CHẾ LAN VIÊN
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. TÁC GIẢ:
1. Tiểu Sử
- Chế Lan Viên (1920 – 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
- Thuở nhỏ, Chế Lan Viên sống ở Bình Định. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông đi học và làm báo ở Sài Gòn và các tỉnh miền Trung.
- Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của Trường Thơ Loạn”. Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thị đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn sáng lập ra “Trường Thơ Loạn” được gọi là nhóm “Bàn thành tứ hữu” của Bình Định.
- Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia cướp chính quyền ở Quy Nhơn. Sau năm 1954, ông về sống ở Hà Nội, tiếp tục các hoạt động văn nghệ và sáng tác.
- Từ sau năm 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh cho đến lúc qua đời,
2. Sự nghiệp văn học
- Các tập thơ: Điêu tàn (1937), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Hoa trên đá (1984), ...
- Các tập tiểu luận phê bình: Phê bình văn học (1962), Suy nghĩ và bình luận (1971), Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981), Nghỉ cạnh dòng thơ (1981),
3. Phong cách
- Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thơ Chế Lan Viên mang phong cách, thần bí, bế tắc của thời “Điêu tàn” với xương, máu, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm. Những tháp Chàm “điêu tàn” là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên, qua những phế tích đổ nát trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ..
– Sau Cách mạng, thơ ông đã tìm đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, đã thấm nhuần ánh sáng của cách mạng, và có những thay đổi rõ rệt. Trong thời kì 1960 – 1975, thơ Chế Lan Viên nỗ lực vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, thời sự đậm đà.
- Sau năm 1975, thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái tôi trong sự phức tạp, đa diện, phong phú và vĩnh hắng của đời sống.
- Phong cách thơ nổi bật nhất của Chế Lan Viên là chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa.
II. TÁC PHẨM TIẾNG HÁT CON TÀU.
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Những năm 1958 – 1960, Đảng và Nhà nước đã vận động nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế mới Tây Bắc. Lấy sự kiện chính trị xã hội làm điểm xuất phát là một cách khai thác đề tài rất quen thuộc của nhà thơ Chế Lan Viên. .
- Tuy nhiên, về cơ bản Tiếng hát con tàu là hành trình tác giả trở về tìm lại chính con người bản thân mình. Đồng thời, bài thơ còn là khúc hát về lòng biết ơn, về tình yêu và sự gắn bó với nhân dân, với đất nước của một tâm hồn thơ đã tìm thấy ngọn nguồn nuôi dưỡng và chân trời nghệ thuật mới của mình.
2. Bố cục
Bài thơ có thể chia thành ba đoạn:
Đoạn 1 (hai khổ thơ đầu ): Lời thúc giục lên đường.
Đoạn 2 (chín khổ thơ tiếp theo): Lên Tây Bắc chính là sự trở về, trở về với chính mình, với nhân dân, với kháng chiến.
Đoạn 3 (còn lại ): Khúc hát lên đường.
3. Những giá trị nội dung, nghệ thuật
- Nhan đề Tiếng hát con tàu là một nhan đề mang ý nghĩa biểu tượng. Bởi lẽ, trên thực tế, ở thời điểm bài thơ ra đời, chưa có một đường tàu nào lên Tây Bắc. Vì thế, có thể hiểu con tàu ở đây là biểu tượng cho khát vọng đi xa, vươn đến với những vùng đất xa xôi, đến với nhân dân đất nước.
- Con tàu cũng là tâm hồn của nhà thơ với ước vọng tìm về ngọn nguồn sáng tạo nghệ thuật đích thực của mình.
- Địa danh Tây Bắc cũng vừa mang ý nghĩa thực nhưng lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Tây Bắc không chỉ là một vùng đất bao gồm các tỉnh Hoà Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, mà còn là Tổ quốc, là nhân dân, là ngọn nguồn của sáng tạo nghệ thuật. Điều này được giải thích rõ trong bốn câu đề từ của bài thơ:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu
– Mở đầu bài thơ là những băn khoăn trăn trở, nhà thơ nói với mọi người mà cũng như nói với chính mình:
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
– Hình thức những câu thơ giống như những câu hỏi liên tiếp, vì thế nó có sức lay gọi lớn. .
- Ý thơ cũng đã khẳng định mối quan hệ giữa sáng tạo nghệ thuật và cuộc sống: Chẳng có thơ đầu giữa lòng đóng thép | Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
- Đoạn thứ hai của bài thơ tập trung diễn tả niềm hạnh phúc, niềm vui tột cùng khi được trở về với nhân dân, tác giả sử dụng những hình ảnh so sánh đầy sức gợi:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
- Đối với Chế Lan Viên, được trở về với nhân dân không chỉ là niềm khát khao, niềm vui mà còn là một lẽ tự nhiên phù hợp với quy luật. Và với nhân dân là về với ngọn nguồn bất tận, thiêng liêng của sự sáng tạo mỗi một con người. nghệ thuật, về với những gì gắn bó đau đáu nhất đối với đời sống của
- Khát vọng trở về với nhân dân được tác giả thể hiện như là sự trở về với những người thân yêu nhất. Đó là sự trở về với người anh du kích, người em liên lạc. Đặc biệt là trở về với Mẹ thân yêu:
Con nhớ mế? Lửa hông soi tóc bạc
Năm con đau, mê thức một mùa dài
Con với mể không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
- Đọc những câu thơ trên của Chế Lan Viên, ta như thấy nhân vật trữ tình đang nhập thân để nói hộ tâm sự của biết bao người lính. Cũng vậy sự nghĩa tình của người mẹ kháng chiến kia đối với nhà thơ không chỉ còn là chỉ tình cảm riêng tư. Nhà thơ hoà mình vào cùng tâm tư của người chiến sĩ, hoà vào biển ơn nghĩa sâu nặng của nhân dân.
- Lên Tây Bắc chính là sự trở về, Chế Lan Viên tiếp tục đưa người đọc trở về với người em gái nhỏ thân yêu, về với mối tình lãng mạn của buổi đầu đôi lứa yêu nhau. Để rồi, khi chia tay:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn.
- Tình yêu góp phần làm nên sự sống, làm nên những điều kì diệu, phi thường. Tình yêu là cội nguồn của mọi sáng tạo, đổi thay. Chế Lan Viên có những so sánh liên tưởng táo bạo, đầy hình ảnh mới mẻ để ngợi ca sức mạnh tình yêu:
Anh bỗng nhớ em như động về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lại hoá quê hương
- Đoạn thứ ba của bài thơ giống như một khúc hát lên đường, nhịp thơ vui tươi, khoẻ khoắn. Lòng người đã thật sự lên đường, không còn những băn khoăn trăn trở như ban đầu nữa, bởi: Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi. Lòng người đã tự nguyện lên đường.
Trong bầu không khí rộn ràng của thắng lợi, của mái ngói đỏ trăm ga, của mùa lúa bội thu chín rì rào, của biển người đang căng bầu nhựa Công cần lao, nhà thờ hồi tưởng về những ngày gian khổ:
Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ,
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa,
Nay trở về, ta lấy lại càng ta. .
- Nhịp thơ nhanh hối hả gợi nhịp đoàn tàu đang chuyển bánh. Cái đích đển của công cuộc dựng xây, tái hợp cuộc sống, tình người đã xuất hiện. Nhà thơ ngây ngất trong khung cảnh huy hoàng:
Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng.
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống.
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân
- Tiếng hát con tàu là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, thơ ông giàu tính triết luận, cảm xúc thơ luôn được nung nóng trong lí trí, vì thế ý thơ đậm đặc những suy tưởng và mang tính khái quát cao.
- Hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên luôn được đi ra từ những sáng tạo độc đáo, bất ngờ, Tứ thơ của ông được tạo lập chủ yếu dựa trên những liên tưởng logic của lí trí. Những hình ảnh đó được kết hợp với cách sử dụng những biện pháp tu từ linh hoạt đã tạo cho hình thức thơ ông luôn mới mẻ, cuốn hút người đọc. Chế Lan Viên là người luôn ý thức tìm tòi đổi mới hình thức thơ.
B. TỰ LUẬN
1. Vẻ đẹp trí tuệ trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên
Gợi ý làm bài
- Chế Lan Viên là nhà thơ lãng mạn, tác giả của tập thơ “Điêu tàn” rất nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám.
- Ông đi theo cách mạng. Hoà bình lập lại (1954), hoà mình trong bầu không khí sôi động, mới mẽ, ông mới sáng tác được nhiều bài thơ hay. “Tiếng hát con tàu” in trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa” (1960).
- Bài thơ mang tính thời sự, được sáng tác để đáp lại lời kêu gọi của Đảng và nhà nước kêu gọi mọi người đi khai hoang Tây Bắc. Bài thơ được sáng tác với xúc cảm chân thành và nồng nhiệt. Vùng đất tươi đẹp và anh hùng của Tổ quốc hiện lên qua những hình tượng thơ lấp lánh ánh sáng của trí tuệ.
- Thi sĩ, chính xác hơn là tâm hồn thị sĩ đã hoá thành con tàu mộng tương, dệt những ước mơ tươi đẹp lên vùng đất nhiều đau thương nhưng nặng nghĩa tình. Về với Tây Bắc là trở về với nhân dân mà cũng là trở về với chính lòng mình.
- Mở đầu bài thơ bằng lôi tự vẫn, nhà thơ bộc lộ sự trăn trở đầy triết lí trước một nhiệm vụ trọng đại của đất nước:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu
- Con tàu ở đây là con tàu của mộng tưởng, vì khi ấy và ngay cả bây giờ vẫn chưa hề có đường tàu lên Tây Bắc. Nhưng con tàu ấy mang giá trị biểu tượng: gợi những chuyến đi xa, gợi những ước mơ lãng mạn, Hình ảnh thơ tràn ngập nhịp đi, hiên ngang, say đắm:
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô, tàu đói những cành trăng
- Chất trí tuệ không chỉ có trong giai điệu, hình ảnh mà còn xuất hiện cả ở những liên tưởng, so sánh giữa cuộc đời mênh mông với cảm xúc cá nhân nhỏ bé, giữa sự khép mình và sự trải rộng lòng mình ra với nhân dân, đất nước. Người đi khai hoang Tây Bắc chẳng những vì Tây Bắc mà còn vì việc mở rộng cách cửa hẹp của đời sống, mở lối cho sáng tạo, cho ngọn nguồn thơ:
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đầu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên bia.
– Sự ra đi (đến với Tây Bắc) đồng nghĩa với trở về (với nhân dân). Trở về “nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất”. Và đất đã trở thành mẹ thiêng liêng, “mẹ yêu thương” trong gian khổ cần lao. Đây là cách nhà thơ cụ thể hoá cảm xúc của mình:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa..
- Đầy triết lí qua những so sánh bất ngờ, bình dị. Điều mà ai cũng biết, nhưng sự trẻ trung bất chợt đã khiến cho dòng suy nghĩ lung linh, biến hoá. .
- Kỉ niệm sâu sắc trong kháng chiến với nhân dân Tây Bắc hiện lên như một cuốn phim trong tâm hồn chứa chan tình cảm sâu nặng của tác gia. Nhà thơ gọi một cách thân thiết, ruột và những giai điệu nhân dân” của mình: “Con nhớ... người anh du kích”, “Con nhớ... thằng em liên lạc”, “Con nhớ mế... tóc bạc”.
- Tây Bắc hiện lên anh dũng mà tình nghĩa. Và chính nỗi nhớ đó, chính nhận thức đó đã tấn phong xứ sở xa lạ thành quê hương:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
- Tiếp tục mạch triết lí, nhà thờ chuyển sang diễn tả sự gắn kết bằng những rung động cụ thể, riêng tư. Chuyện tình yêu:
Anh bỗng nhớ em như động về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh biến hoa vàng.
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
- Khổ thơ tiếp tục chứng minh triết lí “đất – tâm hồn” bằng cách tìm ra nguyên nhân làm cho “đất lạ hoá quê hương”. Lối so sánh thật khác lạ: “Anh bỗng nhớ em như động về nhớ rét”. Chất trí tuệ lấp đầy chứ không phải tình cảm thuần khiết. Mùa đông luôn đi kèm giá rét, mùa xuân lấp lánh “hoa vàng” với “chim rừng lông trở biếc”. Vạn vật hồi sinh một khi có tình yêu, và tình yêu đó đã khiến diều xa lạ trở nên gần gũi: “Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”.
– Tình yêu phải biến thành hành động, nhà thơ giục giã lên đường xây dựng quê hương Tây Bắc:
Đất nước gọi hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy gỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đó trăm ga
- Trở về với Tây Bắc cũng có nghĩa trở về với cội nguồn thơ, với lẽ sống cao quý của một tâm hồn nghệ sĩ. Nhà thơ một lần nữa được tái sinh. ý nghĩa thơ ca, cuộc sống là ở chính cuộc đời:
... Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân
- Chất trí tuệ giàu cảm xúc của Chế Lan Viên được bồi đắp trong bể rộng tình cảm cách mạng đã mang đến cho “Tiếng hát con tàu” sức ngân vang làm say đắm trái tim của độc giả bao đời.
2. Khổ thơ sau hấp dẫn anh (chị) ở những điểm nào? (Viết thành bài hoàn chỉnh)
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Gợi ý làm bài
Đoạn trích trong “Tiếng hát con tàu” in trong tập thơ “ánh sáng và phù sa” (1960). Con tàu là biểu tượng của sự “đi tới”, đến với miền đất Tây Bắc tươi đẹp của Tổ quốc đang vẫy gọi sự dựng xây, tái thiết sau chiến tranh. Tiếng hát ấy còn là tiếng hát ngợi ca của một tâm hồn đang bắt nhịp đồng điệu với cuộc sống mới, nơi ý nghĩa sống của con người được thiết lập dựa trên sự gắn kết toàn dân.
Bài thơ được sáng tác để đáp lại lời kêu gọi của Đảng và nhà nước đi khai hoang Tây Bắc. Con tàu ấy chỉ là con tàu trong tưởng tượng, những hình ảnh và cảm xúc thơ là chân thành và nồng nhiệt. Vùng đất tươi đẹp và anh hùng của Tổ quốc hiện lên qua những hình tượng thơ lấp lánh ánh sáng triết lí của trí tuệ.
Tây Bắc trong đoạn trích là Tây Bắc của hoài niệm. Khởi đầu bằng chữ “nhớ”. Nhớ cuộc sống ấm cúng thơ mộng của bản làng, được miêu tả đầy lãng mạn là làng bản chìm trong sương, gợi sự liên tưởng về bản làng của Quang Dũng trong Tây Tiến: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Chế Lan Viên nhớ khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ (đèo mây phủ). “Bản sương giăng”, “đèo mây phủ” ấy lung linh huyền ảo. Hình ảnh của kí ức, của kỉ niệm êm đềm tươi đẹp.
Nhà thờ kí thác lòng mình, tự hỏi mình mà như tìm sự đồng cảm nơi - mọi người về một chân lí: “Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”. Thực ra chỉ những nơi gắn bó máu thịt, những nơi cưu mang, chở che, đùm bọc, có ý nghĩa quyết định đến sự sống, hạnh phúc của con người thì mới có thể được con người đền đáp bằng tình yêu thương. Và ngược lại, chỉ có yêu thương thực sự, gắn bó thực sự thì “đất” mới yêu thương lại con người. Tính chất triết lí của câu thơ là nhằm để nhấn mạnh đến sự gần gũi, gắn bó ấy.
Hai câu thơ cuối tập trung hết cái thần của toàn bài thơ:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
Được kết cấu theo lối đổi (Khi ta ở - Khi ta đi) nhưng ý thơ thì nằm trong mạch vận động thống nhất. Từ sự vật cụ thể là “đất”, đặt trong mối quan hệ “ở” và “đi” “đất” ấy đã hoá thành trừu tượng “đất” là “tâm hồn”.
Sự gắn bó giữa con người với quê hương xứ sở, với những miền đất xa lạ mà chúng ta đã từng sống,... được đúc kết theo quy luật: nơi ở ấy dần ngấm vào máu xương, da thịt để biến đổi thành tâm hồn, hay cái gọi là tâm hồn thực chất là những kỉ niệm về nơi từng gắn bó máu thịt trong đời sống mỗi con người. Không có sự gắn bó, không có kỉ niệm, ắt không có tâm hồn. Trong lập luận này, sức hấp dẫn được tạo ra từ mối quan hệ biện chứng đất – tâm hồn.
Nỗi nhớ, kỉ niệm không chỉ làm thăng hoa tâm hồn mà khiến quê hương, xứ sở trở thành một phần máu xương không thể chia tách. Không có con người sẽ không có quê hương và ngược lại con người có tồn vật tốt đẹp được hay không là nhờ mảnh đất chắp cánh tâm hồn..
Khổ thơ chỉ hướng về “đất” nhưng tình người đã thắm đượm. Nỗi nhớ diệt đã biến nơi xa la, vật vô tri trở thành máu thịt con người.
- Soạn bài Đọc thêm: Dọn về làng
- Soạn bài Đò Lèn
CHẾ LAN VIÊN