Cảm nghĩ về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải

Đề bài: Cảm nghĩ về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

Mục Lục bài viết:
1. Dàn ý chi tiết
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3



Bài văn mẫu Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải


I. Dàn ý Cảm nghĩ về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải


1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.


2. Thân bài

a. Bức tranh xuân thiên nhiên trên miền đất Huế thật đẹp, thật tình:
- Nơi dòng Hương Giang êm đềm trong trẻo, một bông hoa lục bình tím biếc đang khoe sắc rực rỡ.
- Màu tím biếc của hoa kết hợp cùng màu xanh trong của dòng nước mang đến bức tranh mùa xuân hài hòa, tràn đầy sức sống.
- Tiếng hót trong trẻo, vang vọng của chú chim chiền chiện làm cho bức tranh tràn ngập không khí mùa xuân.
- Nàng xuân kiêu kỳ mang giọt xuân đến cho đời

b. Xuân đồng hành cùng con người, cùng nhân dân:
- Mùa xuân - Người cầm súng: đó là những ngày chiến đấu, mang trên đôi vai quyết tâm và ý chí kiên cường.
- Mùa xuân - người ra đồng, đó là vẻ đẹp của nhân dân lao động, chịu thương chịu khó; là nhiệm vụ lao động sản xuất thời hậu chiến.
- "Lộc" xuân không chỉ là lộc non xanh biếc của lá cành, lúa nương mà nó còn là lộc của thắng lợi chiến đấu, của những thành quả trong sản xuất tăng gia.
- Các từ " hối hả"; " xôn xao", càng làm nổi bật không khí thi đua, thúc giục nhau lao động dựng xây đời.

c. Xuân ca khúc hát tự hào:
- Sau ngàn năm vất vả đất nước được thái bình
- Niềm tin vào một ngày mai tươi sáng

d. Ý nguyện cao quý của thi nhân:
- Nguyện làm cành hoa nhỏ  bé, làm nàng chim xanh, làm một nốt trầm lặng trong khúc ca cuộc đời.
- Nguyện sống một cuộc đời thật ý nghĩa


3. Kết bài

Cảm nghĩ về giá trị bài thơ.


II. Bài văn mẫu Cảm nghĩ về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải


1. Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, mẫu số 1 (Chuẩn):

Mùa xuân là mùa của những sự khởi đầu mới, mùa mà vạn vật như hồi sinh, mùa mà nhựa sống của thiên nhiên và con người dâng trào mãnh liệt nhất. Mùa xuân cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những thi sĩ yêu thiên nhiên. Và Thanh Hải cũng là một trong những người thi sĩ như thế! Bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết, tình yêu đất nước nồng nàn và khát vọng cao đẹp của mình, Thanh Hải đã sáng tác Mùa xuân nho nhỏ - bài thơ đẹp đẽ ghi dấu ấn cuộc đời của ông.

Nhắc đến những bài thơ về mùa xuân, người ta có thể ngay lập tức nhớ tới Vội vàng của Xuân Diệu – một bài thơ xuân ngọt ngào, thắm đượm:

"Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân đã già"

Thế nhưng, người ta cũng không thể nào quên được hình ảnh của một mùa xuân thấm đẫm tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước và khát vọng được dâng hiến cháy bỏng của Thanh Hải trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được.

Nếu như Xuân Diệu bắt đầu bài thơ xuân của mình bằng một ước muốn rằng:

"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi"

Thì Thanh Hải lại mở đầu bài thơ xuân của mình bằng cả một không gian rộng lớn bao la với chim chóc, hoa lá, với dòng sông, … trong trí tưởng tượng của mình:

"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"

Tại sao nói tất cả không gian rộng lớn kia, tất cả tạo vật đang hoan hỉ trong bức tranh kia là trong tưởng tượng của tác giả? Đó là bởi vì khi ông viết lên những dòng thơ đầu tiên của bài thơ này, ông đang nằm dưỡng bệnh tại quê nhà ở Huế của mình vào tháng mười một năm 1980. Ấy thế mà cả mùa xuân hiện lên thật rực rỡ, thật đậm sắc qua từng hình ảnh thơ của Thanh Hải. Ông đã khắc họa cái không gian rộng lớn, thoáng đãng khi mùa xuân ào đến, cùng với sắc hoa, cùng với chim chóc và dòng sông, tạo nên một bức tranh mùa xuân đẹp tuyệt vời.

Xuất hiện ngay ở dòng thơ đầu tiên là hình ảnh của một bông hoa nhỏ, mọc lên từ giữa dòng sông xanh biêng biếc. Chỉ có "một bông hoa tím biếc" như là một dấu hiệu báo cho con người và vạn vật rằng nàng xuân đã đến rồi. Bông hoa ấy chẳng phải màu đỏ rực, chẳng phải màu vàng phai, hồng thắm mà lại là màu "tím biếc". Đây là màu sắc đặc trưng của quê hương ông – xứ Huế mộng mơ. Người ta biết đến Huế với những nhịp cầu Tràng Tiền nhịp nhàng với những tà áo dài Huế tím biêng biếc say mê, thế nên chẳng phải tự nhiên mà ông mang cái màu sắc đặc trưng ấy vào trong dòng thơ đầu tiên của Mùa xuân nho nhỏ. Đó phải chăng là một tình yêu thương thắm thiết với quê hương mà Thanh Hải muốn gửi gắm qua từng dòng thơ của mình?

Xứ Huế còn được đặc trưng bởi dòng sông "trăm thứ hương đổ về" – sông Hương. Và Thanh Hải đã đặt dòng sông ấy vào ngay trong câu thơ đầu tiên như để tri ân với quê hương. Một dòng sông Hương "xanh" biêng biếc đang lững lờ uốn lượn, trải dài trước mắt của chúng ta. Nó đang chở trên lưng mình một trong những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân, đó là một bông hoa "tím biếc". Bông hoa ấy "mọc" lên ở giữa dòng sông, đột ngột, bất ngờ như báo hiệu mùa xuân đến thật bất chợt. Động từ "mọc" được ông đảo lên ngay đầu câu thơ càng làm cho chúng ta thấy rõ sự xuất hiện quá đỗi bất ngờ của bông hoa ấy. Bông hoa ấy không phải màu hồng phai, màu đỏ rực, … mà lại mang một màu tím – sắc màu thân thương của xứ Huế. Bông hoa ấy nở giữa dòng sông, ánh lên trong ánh nắng mới lóng lánh.

Không gian mùa xuân trong trí tưởng tượng của Thanh Hải không chỉ có hoa xuân mà còn những chú chim nhỏ bé nữa. Những chú chim ấy cũng như bông hoa kia, cũng là một người đưa tin cho mùa xuân. Giữa không gian bao la của bầu trời cao rộng, chú chim rướn mình, cất lên tiếng hót lanh lảnh, gọi mùa xuân về. Loài chim mà Thanh Hải miêu tả ở đây là "chim chiền chiện" – một loài chim quen thuộc, gắn bó thân thiết với nhà nông. Chú chim ấy cất tiếng hót vang, và nhà thơ đã không ngần ngại mà cất tiếng gọi:

"Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời"

Đây có phải chăng là một tiếng trách cứ, hờn dỗi đáng yêu của nhà thơ với chú chim đáng yêu kia chăng? Ông cất tiếng gọi "ơi" với chú chim, tiếng gọi tha thiết, thân thương như đối với một người thân thuộc. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa chú chim ấy như một con người thực thụ, và con người ấy đang cất tiếng gọi mùa xuân về. Câu thơ tiếp theo, nhà thơ trách cứ chú chim "hót chi mà vang trời", nghe thật đáng yêu làm sao! Chữ "chi" là giọng điệu mang âm hưởng của xứ Huế thân yêu. Tiếng chim lanh lảnh xuyên qua tầng không, vang vọng trong tâm trí, tâm hồn nhà thơ khiến ông rạo rực quá! Nằm ở giường bệnh, nhưng ông muốn cất bước thật nhanh ra ngoài kia mà tận hưởng cho hết cái không khí của mùa xuân đang tràn về.

Thế nhưng, đặc sắc nhất trong đoạn thơ này phải kể tới hai câu thơ cuối của khổ thơ. Chỉ với hai câu thơ này, Thanh Hải đã dường như nắm bắt được cái hồn của mùa xuân:

"Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"

Tiếng chim trên cao vọng xuống từng hồi lảnh lót, gọi nàng xuân về trong yêu thương. Tiếng chim ấy dường như đang cô đặc lại dần thành từng giọt mà nhỏ xuống thế gian, để thế gian bắt đầu một nguồn sống mới. Từng giọt mật mùa xuân trên cao rơi xuống, nhà thơ bất chợt đưa tay ra "hứng" lấy nó như để bắt trọn mùa xuân trong tay. Đọc thơ mà người ta như thấy được hình ảnh của Thanh Hải đang nâng niu hứng từng giọt mật xuân rơi xuống trong niềm vui, đắm đuối vô tận. Ở đây, Thanh Hải đã vô cùng tinh tế khi sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác để miêu tả về mùa xuân. Mùa xuân không còn là một thứ vô hình nữa mà đối với nhà thơ,, mùa xuân trở thành một thực thể hữu hình mà ông có thể sờ, "hứng", chạm và nếm thử. Hành động "hứng" giọt mùa xuân của nhà thơ là một hành động của một con người mang trong mình tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với mùa xuân. Với ông, tận hưởng mùa xuân trọn vẹn phải là sự tận hưởng ngay trong giây phút đầu tiên. Phải nhớ rằng, lúc này, nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, vậy mà chỉ bằng trí tưởng tượng của mình, ông đã dựng lên bức tranh mùa xuân đẹp đến như thế!

Bức tranh mùa xuân của Thanh Hải được dựng lên trong niềm yêu thương tha thiết với thiên nhiên. Bức tranh ấy được ông mường tượng ra trên giường bệnh nhưng lại mang đậm nét linh hồn xứ sở quê hương Huế thân yêu, vừa giản dị lại vừa gần gũi vô cùng. Có lẽ, trong giây phút ấy, Thanh Hải đã khao khát cháy bỏng được rời khỏi giường bệnh, được bước ra ngoài với thiên nhiên, được ôm trọn thiên nhiên vào lòng để mà tận hưởng cái không khí mùa xuân đang dâng tràn trong tâm trí mình.

Viết bài thơ về mùa xuân, Thanh Hải còn dựng lên bức tranh mùa xuân của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đây như là một cách thức để ông biểu đạt tình yêu quê hương của mình:

"Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…"

Nếu như mùa xuân của thiên nhiên với dấu hiệu là những bông hoa tím, là tiếng hót của những chú chim "chiền chiện" thì mùa xuân của đất nước lại được đánh dấu bằng hình ảnh của "người cấm súng" và "người ra đồng".

Như chúng ta đã biết, năm 1980, đất nước ta đang bước vào công cuộc xây dựng mạnh mẽ với hai nhiệm vụ chính là chiến đấu và sản xuất. Vậy nên, Thanh Hải đã dùng hải nhiệm vụ này để miêu tả về mùa xuân của đất nước. Mùa xuân hiện lên trên vai "người cầm súng" là những cành lộc non "giắt" trên lưng áo ngụy trang. Những chồi non xanh biếc ấy như những niềm hy vọng, sự tin tưởng và sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam qua bao thời kỳ. Còn mùa xuân của "người ra đồng" là những "lộc" non của lúa, của mạ non để cấy cày, sản xuất, trở thành hậu phương vững chắc cho những người anh hùng "cầm súng".

Có thể thấy, sản xuất và chiến đấu luôn luôn song hành cùng nhau, bởi chỉ có vậy chúng ta mới có thể cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước chúng ta phát triển ngày một tươi đẹp hơn. Đọc khổ thơ, người ta nhận thấy rằng mùa xuân của hai nhiệm vụ của đất nước đã hòa làm một thành mùa xuân của Tổ quốc, mùa xuân của hòa bình và phát triển.

Giữa sự chuyển mình của đất nước, tất cả vạn vật của Tổ quốc ta dường như cũng đang vội vã, "hối hả" chuyển mình. "Tất cả" đều "xôn xao", "hối hả" trong công cuộc đổi mới ấy. Hai từ láy liên tiếp "hối hả", "xôn xao" như diễn tả sự mau lẹ, sự nhanh chóng, gấp gáp của con người cũng như mọi vật. Tất cả như muốn góp một phần sức lực của mình để chung tay xây dựng mùa xuân của đất nước.

"Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao"

Điệp từ "như" được Thanh Hải sử dụng trong hai câu thơ như để diễn tả nhịp điệu khẩn trương, mau lẹ. Cả đất trời, con người đang giao hòa thật hối hả, thật gấp gáp, thúc giục mọi người qua từng câu chữ. Ngay chính tác giả, dường như ông cũng đang rạo rực, muốn được hòa mình vào cùng mọi người để xây dựng Tổ quốc.

Đây là hình ảnh của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới, không còn chiến tranh, chỉ còn công cuộc xây dựng đất nước đi lên trong hòa bình, tạo nên một mùa xuân rực rỡ cho dân tộc Việt Nam.

Không chỉ nhìn ngắm thực tại, Thanh Hải còn hồi tưởng qua từng dòng thời gian của lịch sử dân tộc, nơi khởi nguồn cho mạch sống trường tồn của đất nước. Nhịp thơ ở đây không còn gấp gáp, hối hả như khổ thơ trên mà nhẹ nhàng, chậm rãi như một cuốn phim quay chậm. Những thước phim ấy đang sống dậy những trang sử hào hùng của dân tộc ta.

"Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước".

Trải qua "bốn ngàn năm" dựng xây và giữ nước, những "vất vả và gian lao" mà dân tộc ta đã trải qua là những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trải dài từ khi vua Hùng Vương dựng nước và tới tận gần đây nhất là hai cuộc chiến tranh chống Pháp và đế quốc Mỹ. Ẩn sau từng câu chữ, người ta như thấy được niềm xúc động, tự hào của Thanh Hải trước công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử xa xôi ấy.

Đất nước đẹp như một bức tranh và sáng như một vì sao tỏ. Thanh Hải đã không ngần ngại mà so sánh hình ảnh của một Việt Nam kiên cường như một vì sao sáng trên bầu trời. Đây là niềm tự hào của Thanh Hải về non sông, đất nước Việt Nam, một đất nước mà luôn chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, lúc nào cũng tỏa sáng rực rỡ "rũ bùn đứng dậy sáng lòa".

Bức tranh về mùa xuân của đất trời, mùa xuân của đất nước được Thanh hải truyền tải bằng tất cả sự trân trọng, tự hào và yêu thương nhất. Nếu mùa xuân của thiên nhiên vạn vật là những màu sắc tươi thắm nhất, những dấu hiệu đẹp đẽ nhất thì mùa xuân của đất nước lại đến cùng với công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, cùng với những con người "hối hả". Dân tộc ta như Thanh Hải đã nói, đã trải qua bốn ngàn năm thăng trầm nhưng vẫn vững vàng "đi lên phía trước" – đây là niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai của dân tộc ta.

Mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước tươi đẹp là thế vậy mà tác giả lại phải nằm trong giường bệnh. Vậy nên, những khổ thơ cuối cùng của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ấy, ông đã viết lên ước nguyện, khát vọng của mình, giản dị mà chân thành vô cùng:

"Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Một nốt trầm xao xuyến
Ta nhập vào hòa ca"

Liên tiếp ở các câu thơ, nhà thơ đã sử dụng động từ "ta làm" để biểu đạt cái khát khao tột độ đang cháy bỏng ở trong tim mình. Ông ước được làm một "con chim hót", "một cành hoa" nhỏ bé mà dâng hiến cho đời. Những vật ông ao ước trở thành đều là những vật nhỏ bé, tầm thường trong cuộc sống, thế nhưng ông lại khao khát được trở thành để được cống hiến cho cuộc đời. Ông ước mình trở thành "một nốt trầm xao xuyến" – một nốt lặng bé nhỏ giữa bản nhạc tươi vui của cuộc đời. Mong ước ấy thật nhỏ nhỏi, thế nhưng lại chân thành, tha thiết biết bao nhiêu.

Thanh Hải ước được trở thành "một mùa xuân nho nhỏ" để "lặng lẽ" hòa mình vào thiên nhiên, đất nước để mà dâng hiến cho cuộc đời, cho Tổ quốc, chẳng cần hào nhoáng, chẳng cần được tôn vinh. Bất cứ ở độ tuổi nào, ông cũng muốn được cống hiến, được hi sinh hết mình cho Tổ quốc thân yêu, dù là lúc còn là một chàng thanh niên hai mươi tuổi tràn trề nhiệt huyết hay là giờ đây, khi đã là một ông già tóc bạc. Điệp từ "dù là" như một lời khẳng định mạnh mẽ ước vọng của nhà thơ.

"Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc"

Lời thơ như những lời khẳng định tình yêu tha thiết của Thanh Hải dành cho Tổ quốc, dành cho cuộc sống tươi đẹp. Bởi có yêu tha thiết quê hương, cuộc sống, ông mới khao khát cháy bỏng được cống hiến, được dâng hiến cho cuộc đời đến như thế, đặc biệt là lúc này, khi ông đang năm trên giường bệnh. Cái khát khao ấy cháy bỏng trong tim ông, chưa lúc nào, ông thôi khao khát được cống hiến hết mình cho cuộc đời cả.

Qua những khổ thơ trên, người ta có thể thấy Thanh Hải yêu quê hương, non sông đến thế nào, đặc biệt là xứ Huế thân thương. Chắc có lẽ bởi vì thế mà khép lại bài thơ, Thanh Hải đã cất lên một khúc hát với giai điệu quen thuộc của xứ Huế:

"Mùa xuân tôi xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế"

Những điệu hò "Nam ai, Nam bình" đều là những khúc ca quen thuộc của xứ Huế. Nếu khúc Nam ai là giai điệu buồn thương, da diết thì Nam bình lại dìu dặt, trìu mến. Cả hai điệu hát đều được cất lên trên nhịp phách tiền đặc trưng của dân ca Huế. Thế mới biết, Thanh Hải gắn bó khăng khít và yêu thương xứ Huế đến nhường nào. Ông đã đặt nó vào trong tim mình, mang cả vào đó điệu hò quen thuộc của quê hương.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải được viết bằng thể thơ năm chữ quen thuộc với nhịp điệu uyển chuyển. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc đời của tác giả, đồng thời nó cũng thể hiện một khát vọng cháy bỏng mà chân thành của nhà thơ đó là được góp phần làm nên mùa xuân của đất nước.

Thanh Hải đã khéo léo sử dụng những biện pháp tu từ linh hoạt như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, … để bộc lộ tình yêu của mình.

Viết bài thơ vào những ngày tháng cuối của cuộc đời, thế nhưng lời thơ của Thanh Hải lại không có một chút bi lụy mà thay vào đó, người ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, Tổ quốc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai của đất nước cũng như khát vọng cháy bỏng của ông.
 

2. Bài văn cảm nhân về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, mẫu số 2 (Chuẩn):

Thanh Hải sinh năm 1930, quê ở Thanh Điền, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ra trong một gia đình tri thức nghèo, từ nhỏ gắn bó với cuộc sống của những người nông dân nên ông dành một tình yêu đặc biệt cho quê hương, đất nước của mình. Là một nhà thơ hiện đại của Văn học Việt Nam, ông ghi dấu ấn trên văn đàn thơ ca bằng những tác phẩm nhẹ nhàng nhưng duyên dáng, thể hiện được ước muốn lớn lao và ý nghĩa. Có thể kể đến Những đồng chí trung kiên; bài thơ Ánh mắt hay tập thơ Huế mùa xuân. Và không thể không nhắc đến thi phẩm Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết vào những ngày cuối đời mình trên giường bệnh, bài thơ thật đẹp không chỉ bởi ngôn từ mà còn bởi những thông điệp tích cực mà nó mang lại:

" Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời"

Bức tranh xuân trên miền đất Huế thật đẹp, thật tình. Nơi dòng Hương Giang êm đềm trong trẻo ấy, một bông hoa lục bình tím biếc đang khoe sắc rực rỡ. Động từ "mọc" được đặt đầu câu thơ càng thể hiện được sức sống đầy mạnh mẽ của sự vật. Nhành lục bình nhỏ bé vẫn kiên cường trỗi dậy giữa dòng, mang vẻ đẹp thơ mộng của mình góp vui, tô điểm cho không gian mùa xuân tuyệt đẹp. Màu tím biếc của hoa, màu xanh trong của dòng nước hài hoà, duyên dáng mà đầy quyến rũ khiến người nghệ sĩ không khỏi bị cuốn hút, xao lòng. Xuân trên đất Huế không có  “mơ nở trắng rừng" như mùa xuân trong Việt Bắc, cũng không có "cỏ đồng nội xanh rì" như trong thơ Xuân Diệu, xuân Huế mang nét tươi mới của hoa lục bình, của nước sông Hương thơ mộng, của đất trời vùng đất kinh kỳ cổ kính, trầm mặc, bình yên đến lạ thường.

Xuân trên Huế không chỉ mang sắc màu, xuân trên Huế còn mang cả những âm thanh gần gũi mà đầy mê hoặc. Đó là tiếng hót trong trẻo của chú chim chiền chiện trên cao, khúc hót chào xuân xưa đi vẻ tĩnh lặng, mang đến niềm vui cho vạn vật. những tiếng "chi", "ơi" nghe sao mà ngọt ngào đến thế, tiếng nói thân thương của người Huế ấy khiến ai cũng phải xao lòng bởi sự gần gũi mà thân thương. 

  "Từng giọt long lanh rơi
  Tôi đưa tay tôi hứng"

“Từng giọt long lanh rơi” gợi cho ta nhiều liên tưởng thú mị, là nàng xuân kiêu kiêu kì mang giọt xuân đến cho đời hay là những giọt mưa xuân, cũng có thể là những giọt sương đêm còn vương nơi lá cành, những giọt âm thanh của chim chiền chiện. Nhưng dù là giọt gì đi nữa thì nó cũng được người thi nhân trân trọng, nâng niu, cảm nhận bằng cả trái tim mình. Dù đang nằm trên giường bệnh, mà sức xuân dạt dào đã làm cho người thi nhân không khỏi háo hức, hoà quyện trong vẻ đẹp của tự nhiên, trong không khí ngọt ngào của mùa xuân xứ Huế.

Bước sang khổ thơ thứ hai, ta được cảm nhận về bức tranh sinh hoạt và chiến đấu của con người trong những ngày xuân tươi. 

" Mùa xuân người cầm súng
Lộc trải đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương lúa
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao"

Đất nước ta đi lên từ nghèo khổ, chiến đấu để giành độc lập và dựng xây đời bằng bàn tay lao động. Hiểu thấu được những hy sinh và công lao của dân tộc, Thanh Hải đã lựa chọn những hình ảnh tiêu biểu nhất để bày tỏ. Mùa xuân - Người cầm súng, đó là những ngày chiến đấu, mang trên đôi vai quyết tâm và ý chí kiên cường, mang trên đôi vai cả niềm tin của dân tộc. Mùa xuân - người ra đồng, đó là vẻ đẹp của nhân dân lao động, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương tăng gia sản xuất phục vụ kháng chiến, khi hoà bình người dân lại tiếp tục hăng hái trên ruộng nương để phát triển kinh tế, dựng xây cho đời. "Lộc" xuân không chỉ là lộc non xanh biếc của lá cành, lúa nương mà nó còn là lộc của thắng lợi chiến đấu, của những thành quả trong sản xuất tăng gia.

Các từ "hối hả"; "xôn xao", càng làm nổi bật không khí thi đua, thúc giục nhau lao động dựng xây đời.

Trong khí thế sục sôi ấy, tác giả không khỏi tự hào, không khỏi xúc động khi nghĩ về những vất vả để làm nên đất nước ngày nay. Và hơn thế nữa là một niềm tin bất diệt về một tương lai đầy tươi sáng của dân tộc:

" Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước"

Trong đoạn thơ này, ta như bắt gặp một cảm xúc chung của Thanh Hải với Nguyễn Đình Thi khi dựng lên một tượng đài đất nước bất tử và hiên ngang, kiên cường và bất khuất:

"Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!"

Từ niềm say đắm và tự hào ấy, nhà thơ cũng muốn góp chút sức nhỏ bé của mình vào dựng xây đời, góp mùa xuân của đời mình vào tô điểm mùa xuân dân tộc:

" Ta làm con chim hót
...
Dù là tuổi đôi mươi
Dù là khi tóc bạc"

Tiếng "ta" cất lên cũng là lúc nhà thơ nói hộ tấm lòng của những con người đất Việt. Ai ai cũng muốn đóng góp sức mình cho sự phát triển chung. Có thể là cành hoa nhỏ  bé, có thể là một nàng chim xanh, cũng có thể là một nốt trầm lặng trong khúc ca cuộc đời. Dù là ai, dù làm gì thì cũng đều phải sống một cuộc đời ý nghĩa để mang đến cho cộng đồng, cho dân tộc những điều tốt đẹp mà mình có thể làm. Ước nguyện thật chân thành, ý nguyện thật lớn lao.  Phải chăng nhà thơ Thanh Hải cũng như chàng thanh niên trẻ trên đỉnh núi Sa Pa trong tác phẩm của Nguyễn Thành Long, cống hiến tuổi xuân xanh thầm lặng để làm việc giúp ích cho chiến đấu, giúp ích cho cuộc đời. Dù đã sắp lìa xa cõi đời mà nhà thơ vẫn không ngừng khát khao được cống hiến thì có gì khi còn trẻ mà chúng ta lại chần chừ do dự. Hãy sống một cuộc đời như chưa từng sông:

" Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc"

Bài thơ khép lại bằng cây thơ tựa như lời hát nhẹ nhàng:

" Mùa xuân ta xin hát
Câu Nằm ai Nắm bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế"

Mùa xuân ta xin dâng cho đời lời ca tiếng hát, lời hát mang tâm tình của một người con thủy chung gắn bó với cội nguồn xứ Huế. Nơi đất Việt, đâu cũng là nhà, chốn đất Việt, ta nặng lòng son sắt với Huế.

Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được viết nên bởi một ngòi bút đầy tài năng. Hình ảnh quen thuộc, bình dị, tứ thơ nhẹ nhàng, chân thành, ngôn ngữ trong sáng, đậm chất Huế,...tất cả góp phần làm nên một tác phẩm xuất sắc góp vào thành tựu của thơ văn nước nhà.

 

3. Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, mẫu số 3:

Nhắc tới mùa xuân trong thơ ca, không biết đã có bao nhiêu tác phẩm, tác giả viết về nó, dùng nó để bộc lộ xúc cảm của mình. Xuân Diệu có “Vội vàng”, Hàn Mặc Tử có “Mùa xuân chín”, Nguyễn Bính có “Mùa xuân xanh”, … Thế nhưng khi đọc đến “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, ta lại cảm nhận được một hương vị khác, một hương vị vô cùng riêng biệt. Đó là một tình yêu cuộc sống tha thiết của một con người, tình yêu nước nồng nàn và khát vọng được dâng hiến cho cuộc đời.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được viết khi tác giả đang trên giường bệnh trước khi rời xa cõi đời không lâu. Chính vì vậy, bài thơ là nỗi ước vọng lớn lao của tác giả chứa chan trong đó là cả một thứ tình yêu quê hương đất nước tha thiết và tình yêu cuộc sống vô vàn. Bước vào bài thơ, chúng ta có thể thấy ngay một chất rất riêng của Huế đã được Thanh Hải gửi gắm:


“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Ngay trong dòng thơ đầu tiên, tác giả đã sử dụng một động từ nhấn mạnh “mọc”, không phải mọc trên bãi bờ hay mặt đất mà là “mọc giữa dòng sông xanh”. Chỉ vậy thôi nhưng người đọc cũng như thấy cả một dòng sông đang trải dài ra trước mắt, dòng sông ấy đang hiền hòa, lững lờ trôi. Và xuất hiện ngay giữa dòng nước trong xanh ấy “một bông hoa tím biếc”. Bông hoa ấy như được nở ra giữa dòng nước chảy, như được nổi lên từ mặt nước yên bình. Bông hoa ấy có màu tím biếc. Chắc hẳn ở đây, chúng ta có thể hình dung ra một bông hoa lục bình tím đang trôi giữa dòng. Không phải là tím đậm hay tím nhạt mà lại là tím biếc, từ “biếc” ấy dường như đã tô đậm thêm khung cảnh của dòng sông. Một bức tranh quê hương bình dị, mộc mạc đã hiện ra trước mắt người đọc. Nhưng mùa xuân nào chỉ có thế:


“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

Một tiếng gọi “ơi” thân thương, giản dị! Chú chim kia đã trở thành người đưa tin của mùa xuân và loài chim chiền chiện vốn là loài chim quen thuộc ở những vùng quê. Tác giả đã đưa ra lời trách cứ “hót chi mà vang trời”. Chú chim nhỏ mang tin vui mùa xuân tới, đang cất vang những tiếng hót mừng mùa xuân về. Tiếng hót trong trẻo ấy vang vọng cả trời xanh khiến cho vạn vật đều cảm thấy vui tươi, hạnh phúc. Một lời trách cứ rất Huế, rất đáng yêu, dịu dàng. Được ngắm nhìn dòng sông với cánh hoa lục bình tím biếc dập dờn trôi cùng thưởng thức tiếng chim hót chào mừng xuân mới, nhà thơ như cảm nhận được tiếng chim mùa xuân kia đang dần đông đặc lại, quyện sánh lại như một giọt mật ngọt ngào. Giọt mật long lanh như sương sớm mai trong lành, từng giọt…từng giọt đang lặng lẽ nhỏ xuống không gian yên bình. Và tác giả đã đưa đôi bàn tay mình ra “hứng” lấy giọt mật xuân kia để thưởng thức. Chưa từng có bất cứ một so sánh nào khiến cho người đọc cảm thấy ngỡ ngàng hơn thế! Mùa xuân lại như những giọt nước long lanh, lại có thể khiến cho con người có thể chạm lấy, cầm lấy, nếm thử. Hành động hứng cả mùa xuân ấy, tác giả như đang muốn để cho mùa xuân lan đi, tràn ngập khắp ngõ ngách của tâm hồn mình. Phải yêu cuộc sống tha thiết tới nhường nào thì mới không muốn mất đi chỉ một giọt xuân nhỏ bé!

Không chỉ là tình yêu cuộc sống, yêu mùa xuân tha thiết, Thanh Hải dù đang nằm trên giường bệnh, nhưng cũng không quên đi những hình ảnh của đất nước đang trong thời kì xây dựng. Đó là nỗi niềm của một người mang trong lòng tình yêu nước thiết tha:


“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”

 Một mùa xuân mới lại bắt đầu với những người làm cách mạng. Hình ảnh đất nước đang trong thời kì xây dựng với hai nhiệm vụ chính là chiến đấu và sản xuất. Chúng ta đã bước qua giai đoạn đấu tranh giành độc lập và bước vào thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa. Vậy nên cùng với mùa xuân của đất trời, mùa xuân cũng đã về trong lòng những con người xây dựng đất nước. “Lộc” tức là những chồi non, những cành cây non biếc, là hình ảnh của mùa xuân. Nó tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở, tượng trưng cho sức sống mãnh liệt đang trở mình vươn dậy. Vậy nên, xuân của người lính là những lộc non giắt quanh lưng để che mắt quân thù. Xuân của hậu phương sản xuất là những cánh đồng nương mạ non. Sản xuất và chiến đấu luôn luon song hành cùng nhau để xây dựng đất nước, mang mùa xuân tươi đẹp hơn về cho dân tộc. Giữa khoảnh khắc mùa xuân của đất trời và mùa xuân của đất nước đang hòa làm một, cả đất nước bước vào đó với một sự khẩn trương rõ ràng:


“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”

Phải rồi, cả đất nước ta, cả trời xuân kia cũng đang rạo rực, đang chuyển mình. Vậy nên, vạn vật cùng con người hối hả hơn, xôn xao hơn. Hai từ láy “hối hả, xôn xao” được dùng liên tiếp trong hai câu thơ đều là những từ láy miêu tả sự gấp gáp, sự rộn ràng, mau lẹ. Cùng với đó là điệp từ “như”, tất cả đó hòa quyện tạo nên một nhịp điệu khẩn trương, vui tươi không ngớt. Đó chính là hình ảnh của đất nước ta đang trong thời kì mới, một thời kì không còn khói lửa, chỉ còn những niềm vui, những mùa xuân hòa bình. Ở khổ thơ này, chúng ta cảm nhận được sự gấp gáp, khẩn trương trong từng nhịp thơ, phải chăng đó cũng chính là sự hối hả của chính tác giả khi được chứng kiến công cuộc xây dựng đất nước trong một mùa xuân mới?

Thế nhưng, ở khổ thơ tiếp theo, chúng ta lại cảm nhận được một sự chậm rãi, không còn không khí khẩn trương hối hả nữa bởi nhà thơ đã đưa chúng ta trở lại hàng ngàn năm lịch sử của quê hương:


“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

 Nhịp thơ chậm rãi hào cùng giọng thơ bình thản như đang kể lại câu chuyện lịch sử “bốn ngàn năm” của dân tộc ta vậy. Trong trang dài lịch sử, chúng ta đã phải trải qua biết bao khó khăn, trải qua biết bao thăng trầm và gian khổ. Bao cuộc chiến chống ngoại xâm mà gần đây nhất là cuộc chiến chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã lấy đi của dân tộc ta không chỉ xương máu mà còn là nước mắt, là những ngày tháng cơ cực, lầm than và đen tối. Đó là trang lịch sử kéo dài đầy “vất vả và gian lao”. Thế nhưng, vượt lên trên tất cả, đất nước chúng ta “như vì sao” sáng, vững vàng bước lên những ngày vinh quang, “tiến lên phía trước”. Ẩn chứa trong từng câu thơ là biết bao niềm tự hào dân tộc mà Thanh Hải muốn gửi gắm. Từ lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, tới những trang vàng lịch sử không thể phai mờ, nhà thơ muốn gửi tới chúng ta niềm tin, niềm hi vọng về một đất nước hòa bình, phát triển ngày càng thịnh vượng hơn. So sánh hình ảnh “đất nước như vì sao” là muốn nói lên niềm tự hào về một dân tộc luôn sáng chói trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cả khổ thơ là niềm tự hào dân tộc xen lẫn với tình yêu nước nồng nàn. Chỉ một khổ thơ thôi mà chứa đựng trong đó biết bao nhiêu điều!

Khi viết bài thơ này, tác giả đã nằm trên giường bệnh những ngày cuối đời, nhưng không phải vì thế mà tình yêu cuộc sống trong ông cũng lụi tàn đi. Ẩn sâu trong con người ông, vẫn là một tình yêu cuộc sống tha thiết, tình yêu đó được biểu hiện qua những vần thơ:


“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”

Cả hai khổ thơ là niềm ước vọng của tác giả. Mùa xuân của đất trời đã bên kia cửa sổ với bao nhiêu là nhựa sống tràn trề. Và Thanh Hải khi ấy muốn được hóa thành một phần của mùa xuân kia. Chỉ là một chú chim nhỏ được cất tiếng hót vang trong bản hòa ca mùa xuân hay là một cành hoa nhỏ bé được dâng tỏa hương thơm ngát cho đời. Chỉ vậy thôi cũng thấy khát vọng sống, tình yêu đời của nhà thơ to lớn tới nhường nào. Cả mùa xuân là một bản hòa ca đầy ý nghĩa với bao nhiêu là giai điệu, bao nhiêu thanh nốt. Vậy nhưng Thanh Hải chỉ muốn xin làm “một nốt trầm xao xuyến” bé nhỏ trong bản hòa ca bất tận ấy. Một nốt trầm lặng như cuộc đời của nhà thơ: bình yên và cống hiến hết mình cho sự nghiệp. Điệp từ “làm” được lặp lại để khẳng định chắc chắn nỗi khát khao cháy bỏng của ông. Nhà thơ muốn được một lần nữa cống hiến “một mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời, cho sự nghiệp của đất nước. Chỉ cần “lặng lẽ dâng cho đời” thôi chứ không cần chút tôn vinh hào nhoáng nào hết. Bất cứ khi nào, lúc còn trẻ “tuổi hai mươi” hay khi đã về già “tóc bạc”, nhà thơ vẫn luôn muốn được sống hết mình, được dâng hiến hết mình cho sự nghiệp của đất nước cũng như với cuộc sống của chính ông. Điệp từ “dù là” được lặp lại hai lần liên tục như để khẳng định ước vọng của nhà thơ. Bất kể khi nào, bất kể như thế nào ông cũng muốn được hòa vào cuộc sống, cống hiến hết mình cho công cuộc xây dựng của đất nước. chỉ với hai khổ thơ ngắn ngủi nhưng gửi gắm trong đó là biết bao tình yêu cuộc sống này, yêu xuân, yêu đất nước và ước nguyện được dâng cho đời những thanh âm trong trẻo nhất. Mỗi con người trong đất nước đều là một mùa xuân nhỏ góp phần tạo nên mùa xuân bất diệt của Tổ quốc.

Kết lại bài thơ là một điệu hát quen thuộc của bất cứ người con xứ Huế nào. Nó chứa đựng trong đó là tất cả cảm xúc chân thành của tác giả - một người con của đất Huế thân thương:


“Mùa xuân tôi xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”.

“Nam ai, Nam bình” là hai điệu hát của người dân Huế. Khúc Nam ai mang điệu buồn thương còn khúc Nam bình mang điệu dịu dàng, trìu mến. Cả hai khúc hát trên đều được hát trên nhịp phách tiền là một nhạc cụ của dân ca Huế. Cuối cùng ở đây, tác giả lại muốn thể hiện một tình yêu quê hương, sự gắn bó khăng khít với Huế qua những câu hò quên thuộc. Những câu hát ấy chính là nỗi lòng của tác giả đầy ngọt ngào, sâu lắng, yêu thương.

Cả bài thơ của Thanh Hải được viết trên thể thơ năm chữ. Thể thơ đó cũng với những biện pháp tu từ đã chuyển tải hết cho người đọc thấy rõ một tình yêu cuộc sống mãnh liệt tới nhường nào của Thanh Hải. Và hòa quyện trong tình yêu đó là một tình yêu cao cả hơn, lớn lao hơn, cháy bỏng hơn dành cho quê hương, cho đất nước ta đang trong thời kì xây dựng. Nó cũng thể hiện khát khao được cống hiến của người con xứ Huế cho mùa xuân của đất nước và con người Việt Nam.

Bài thơ kết lại rồi nhưng âm hưởng ngọt ngào, da diết mà Thanh Hải để lại cho chúng ta cứ ngân vang mãi trong lòng mỗi người. Tình yêu cuộc sống, yêu đất nước và ước nguyện của tác giả đã làm ta cảm thấy khâm phục biết nhường nào. Nhắc tới Thanh Hải, người ta sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh  một “mùa xuân nho nhỏ” đẹp đẽ đến như thế!

--------------------HẾT---------------------

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được sáng tác khi nhà thơ Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh, bởi vậy từng lời thơ đều là những cảm xúc rất thật của một người nghệ sĩ yêu cái đẹp, một con người yêu đời thiết tha. Tìm hiểu thêm về bài thơ, bên cạnh bài Bài văn mẫu Cảm nghĩ về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, các em không nên bỏ qua: Sơ đồ tư duy Mùa xuân nho nhỏ, Cảm nhận tình yêu thiên nhiên của người thi nhân qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, Khát vọng dâng hiến cho đời của nhà thơ Thanh Hải trong khổ 4, 5 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

Bài văn mẫu nêu cảm nghĩ về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải dưới đây là bài viết thể hiện những suy nghĩ, sự đánh giá, nhận xét của người viết về những đặc sắc nội dung và nghệ thuật của bài thơ, các em có thể tham khảo để biết cách viết bài văn cảm thụ về tác phẩm văn học tốt hơn.
Suy nghĩ của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Viết đoạn văn cảm nhận về suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ Thanh Hải trong Mùa xuân nho nhỏ
Phân tích khổ 4,5 trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Mở bài bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời
Dàn ý cảm nhận tình yêu thiên nhiên của người thi nhân qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

ĐỌC NHIỀU