1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật.
2. Thân bài:
2.1. Phân tích nhân vật:
a. Ngoại hình:
- Trước khi tham gia chiến tranh:
+ Tóc dì dài, đen óng mượt, phải lấy ghế đứng lên để chải.
+ Mái tóc của dì khiến chú San bên nhà nhìn trộm cũng phải giật mình.
+ Khi đi trước gió, tóc dì bồng bềnh.
=> Nét đẹp dịu dàng.
+ Lúc tắm với Mai ở sông, dì Mây để lộ ra chiếc cổ trắng ngần, ngực căng đầy, mắt sáng, lung linh.
=> Vẻ đẹp thuần khiết, trong trẻo.
- Sau khi tham gia chiến tranh:
+ Tóc dì xơ, rụng nhiều.
+ Bị mất một bên chân do mảnh đạn phạt vào.
=> Chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, sắc đẹp của dì Mây.
b. Vẻ đẹp phẩm chất, tính cách:
- Dì Mây là người con gái chung thủy:
+ Suốt thời gian dài làm nhiệm vụ cứu chữa người bệnh ở rừng Trường Sơn, dì Mây không lúc nào là không nhớ đến chú San, "Ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào em cũng viết tên anh.".
=> Dù xa nhau nhưng lúc nào dì cũng mang nặng tình yêu thương đối với chú San.
- Kiên quyết, dứt khoát:
+ Thái độ dì Mây vô cùng dứt khoát. Dù lòng còn yêu nhưng khi thấy chú San đã cưới vợ, dì Mây chấp nhận phần thiệt về mình.
+ Dì cương quyết từ chối lời đề nghị của chú San "Mây à! Chúng ta sẽ làm lại", khuyên chú nên về sống hạnh phúc với vợ.
=> Dì Mây rất rạch ròi, dứt khoát, suy nghĩ thấu đáo trong mọi việc.
- Nghị lực, mạnh mẽ:
+ Chịu nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng dì Mây vẫn tiếp tục sống.
+ Dì bị mất một chân nhưng hàng ngày vẫn giúp ông chèo đò.
- Tấm lòng nhân hậu, giàu lòng bao dung:
+ Dì Mây không bao giờ lấy tiền đi đò của lũ trẻ cấp 3.
+ Trạm xá không có người, dì đảm đương công việc. Nhiều đêm mưa, dì đi đến nhà cứu chữa cho bệnh nhân.
+ Dì luôn đặt lợi ích của mọi người lên trên lợi ích của bản thân, chấp nhận đi bộ coi như tập thể dục.
+ Vợ chú San sinh khó, dì sẵn lòng giúp đỡ, không mảy may đến lời cảnh báo của thím Ba.
+ Khi thím Ba mất, dì dang rộng vòng tay, yêu thương, chăm sóc thằng Cún như con đẻ của mình.
- Dũng cảm, kiên cường, không sợ hiểm nguy: Là một y sĩ Trường Sơn, dì không ngại gian lao, vất vả. Dì chắn cửa hầm che chở thương binh. Cô y sĩ bị phạt vào chân còn người lính công binh vẫn lành lặn.
=> Tinh thần quật cường của người lính cụ Hồ.
2.2. Đánh giá nhân vật:
- Dì Mây vừa mang vẻ đẹp của người lính cụ Hồ vừa mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
- Số phận của dì Mây cũng chính là hoàn cảnh của những người bước ra từ chiến tranh.
- Tính cách, phẩm chất của nhân vật được khắc họa thông qua lời nói, hành động cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình.
3. Kết bài:
- Khẳng định vai trò của nhân vật đối với tác phẩm.
Với tư cách là nhà văn quân đội, tác giả Sương Nguyệt Minh đã phản ánh hậu quả của chiến tranh một cách đầy khéo léo và tinh tế qua tác phẩm "Người ở bến sông Châu". Nổi bật trong văn bản là nhân vật dì Mây. Đây là nhân vật chính cũng là nhân vật trung tâm của toàn truyện.
Dì Mây được tác giả miêu tả với ngoại hình thanh thoát, đẹp đẽ của người con gái đôi mươi. Trước khi tham gia chiến tranh, dì Mây có một mái tóc vô cùng suôn mượt, mềm mại. Mỗi lần gội đầu, dì đều nhờ Mai lấy ghế để đứng lên chải tóc. Vẻ đẹp mái tóc khiến cho chú San "nhìn trộm cũng giật mình". Nhiều lúc ra triền sông chơi, "chạy ngược chiều gió thổi, tóc dì xổ tung bay bồng bềnh, bồng bềnh như mây" làm "Mai thầm ước khi thành thiếu nữ có mái tóc mây dài đẹp như dì". Nhan sắc của dì Mây còn khiến bao người ao ước, đắm say "Ngày xưa dì đẹp nhất làng", "Có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm". Lúc tắm sông, dì để lộ ra bờ vai trần, khuôn ngực căng đầy và chiếc cổ trắng ngần cùng đôi mắt lung linh, huyền hoặc. Đó là một vẻ đẹp hết sức mềm mại, nhẹ nhàng và thanh khiết.
Thế nhưng, sau khi tham gia chiến tranh, mái tóc ấy "rụng nhiều, xơ và thưa". Dì Mây cũng không còn là người con gái lành lặn như trước mà trở thành kẻ tật nguyền với cơ thể đã bị cụt một bên chân. Chiến tranh khốc liệt đã cướp đi tuổi trẻ, sắc đẹp của dì.
Bên cạnh ngoại hình, dì Mây còn để lại cho người đọc bao ấn tượng và rung cảm bởi vẻ đẹp phẩm chất. Có thể thấy, dì Mây là người con gái vô cùng chung thủy. Suốt thời gian dài làm nhiệm vụ cứu chữa người bệnh ở rừng Trường Sơn, dì Mây không lúc nào là không nhớ đến chú San, "Ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào em cũng viết tên anh.". Dù xa nhau nhưng dì luôn mang nặng tình yêu thương đối với chú San.
Ông trời như trêu ngươi khi ngày dì về cũng là ngày người yêu dì - chú San đi lấy vợ. Tình cảm dành cho chú chưa bao giờ vơi bớt song dì vẫn kiên quyết không đồng ý với lời đề nghị "Mây! Chúng ta sẽ làm lại", "Anh sẽ từ bỏ tất cả. Chúng ta sẽ về sống với nhau.". Nếu như không có chiến tranh, nếu như dì về sớm hơn một chút thì có lẽ đám cưới hôm nay sẽ là đám cưới của chú San với dì. Thế nhưng, hoàn cảnh trớ trêu ấy đã đẩy dì vào những chọn lựa vô cùng đau khổ. Khác với vẻ quỵ lụy ban nãy, dì dõng dạc nói "Không!" rồi mạnh mẽ "bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân" bỏ lại chú San ở sân. "Ván đã đóng thuyền", biết mọi chuyện tới bước đường này không thể thay đổi được nữa, dì nói "Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!" rồi khuyên chú "Sự thể đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn". Câu nói ấy chất chứa bao nỗi xót xa, cay đắng cho phận mình. Dì Mây rất rạch ròi, dứt khoát, suy nghĩ thấu đáo trong mọi việc, không vì tình cảm mà làm những việc trái với đạo đức, trái với lương tâm.
Ở dì Mây còn ánh lên vẻ đẹp của nghị lực phi thường. Chưa bao giờ, người đọc thấy dì có ý định từ bỏ sự sống sau muôn vàn biến cố, nỗi đau. Mặc dù bị mất một bên chân nhưng hàng ngày dì vẫn cần mẫn giúp ông chèo đò. Không muốn phải tiếp tục chứng kiến người mình yêu bên cạnh người con gái khác, dì quyết định chuyển ra bến sông Châu. Có thể cuộc sống không mấy vui vẻ, song dì vẫn cố gắng vượt qua và vươn lên chính mình.
Không chỉ mạnh mẽ, dì còn có tấm lòng nhân hậu và giàu lòng bao dung với tất cả mọi người. Suốt thời gian chèo đò cho ông, dì không bao giờ lấy tiền đỏ của lũ trẻ cấp ba. Chúng ái ngại nói "Chúng cháu sức dài vai rộng, dì giúp mãi, ngại quá!", dì chỉ cười nói "Đáng là bao, cho chúng mày nợ đến bữa có lương rồi trả". Lúc xây trạm xá mới, không có người, dì nhận lời của ông chủ tịch xã, quay trở về với nghề xưa. Có những đêm mưa, đường xá đi lại khó khăn, dì vẫn "cậm cạch bước, lưng thấm đẫm mồ hôi". Thấy gì vất vả, ông chủ tịch bảo dì nên tập xe đạp rồi ông rải mạt đá cho. Tuy nhiên, dì bảo "Trạm xá còn thiếu thuốc. Tôi cố, cũng như người tập thể dục". Không lúc nào dì không nghĩ cho người khác. Dì luôn đặt lợi ích của mọi người lên trên lợi ích bản thân.
Ngay cả khi vợ chú San sinh khó, dì sẵn lòng giúp đỡ, không mảy may đến lời cảnh báo của thím Ba. Ở trong hoàn cảnh của dì, thật khó để làm việc ấy, vậy mà dì vẫn ân cần hỗ trợ cô Thanh vượt cạn. Khi thím Ba mất, dì dang rộng vòng tay, yêu thương, chăm sóc thằng Cún như con đẻ của mình.
Qua lời kháo nhau của dân làng, ta còn thấy được sự dũng cảm, kiên cường, không sợ hiểm nguy ở dì Mây. Là một y sĩ Trường Sơn, dì không ngại gian lao, vất vả. Dì chắn cửa hầm che chở thương binh. Cô y sĩ bị phạt vào chân còn người lính công binh vẫn lành lặn. Đó là tinh thần quật cường của người lính cụ Hồ.
Vẻ đẹp phẩm chất, tính cách của nhân vật đã được khắc họa thông qua lời nói, hành động, tâm trạng. Có thể thấy, dì Mây vừa mang vẻ đẹp của người lính cụ Hồ vừa mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Số phận của dì Mây cũng chính là hoàn cảnh của những người bước ra từ chiến tranh.
Qua quá trình phân tích dì Mây, ta càng thêm xót thương, cảm phục trước ý chí và nghị lực phi thường của những người lính. Dì Mây cũng giống biết bao người đi ra từ đống hoang tàn, đổ nát của chiến tranh, cũng mang trong mình những nỗi đau không thể xóa mờ. Nhưng cho dù thế nào, họ vẫn sống, vẫn chiến đấu ngay cả khi súng đạn đã qua đi. Tác phẩm chính là lời nhắc nhở nhẹ nhàng đến thế hệ trẻ về lòng biết ơn đối với thế hệ đi trước.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Để hiểu hơn về nhân vật dì Mây trong truyện Người ở bến sông Châu, cá em có thể xem thêm Giới thiệu, đánh giá về nhân vật dì Mây hoặc muốn trau dồi thêm cách viết bài phân tích, đánh giá nhân vật thì đọc thêm bài Giới thiệu, đánh giá nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật Trương Phi và Quan Công nhé. Chắc chắn khả năng viết văn của các em sẽ tăng cao hơn đó.
Sương Nguyệt Minh là một nhà văn quân đội. Tuy đến với nghề muộn nhưng ông vẫn gặt hái được nhiều giải thưởng quý giá từ những tác phẩm của mình. Trong số đó, người đọc hết sức ấn tượng với truyện ngắn "Người ở bến sông Châu". Lấy đề tài hậu chiến, nhà văn người Ninh Bình đã tái hiện thành công số phận, cuộc đời con người thông qua nhân vật dì Mây - một người phụ nữ thủy chung, kiên cường.
Dì Mây là một cô y sĩ Trường Sơn. Trước khi vào chiến trường, dì được miêu tả là "đẹp nhất làng". Người ta nói cái răng, cái tóc là góc con người, dì Mây có mái tóc đen óng mượt, dài đến nỗi phải lấy ghế đứng lên để chải. Khi đi trước gió, tóc dì bồng bềnh, khiến bao người say đắm. Lúc tắm với Mai ở sông, dì Mây để lộ ra vẻ đẹp vốn bị giấu kín của mình. Đó là chiếc cổ trắng ngần, ngực căng đầy và đôi mắt sáng lung linh. Có thể thấy, dì Mây mang một vẻ đẹp đầy nữ tính, dịu dàng, trong sáng. Song, chiến tranh qua đi, sắc đẹp của dì không còn nữa. Từ mái tóc bao người mơ ước đã trở thành một mái tóc xơ, rụng nhiều. Không những thế, dì còn mất đi một bên chân do bị mảnh đạn phạt vào khi che chắn cửa hầm cho thương binh. Chiến tranh đã cướp đi cô gái xinh đẹp, duyên dáng của bến sông Châu, trả lại một cô thương binh xơ xác, héo mòn.
Dì Mây và chú San đã từng có quãng thời gian yêu nhau thắm thiết. Khi chú San đi học ở nước ngoài, chính dì là người đã chèo đò tiễn chú. Trong những ngày ở Trường Sơn, dù vất vả mệt nhọc nhưng dì luôn gìn giữ tình cảm của mình, "trang nhật kí nào em cũng viết tên anh". Tình yêu, lòng thủy chung của dì Mây là thứ mà không phải thời gian hay khoảng cách có thể đánh bại được.
Trớ trêu thay, ngày dì Mây trở về từ chiến trường khốc liệt cũng là ngày chú San lấy vợ. Khi chú San biết dì còn sống, chú cố gắng níu kéo "Mây à! Chúng ta sẽ làm lại". Tình huống này đã cho độc giả thấy sự kiên quyết, dứt khoát của dì Mây. Đáp lại lời thỉnh cầu của chú San, dì đã từ chối bằng những lời phủ định mạnh mẽ như "Không" hay "Thôi! Thôi! Lỡ rồi!". Dù còn rất yêu nhưng dì hiểu rằng chú đã đi lấy vợ, nếu tiếp tục đoạn tình cảm này thì rất nhiều người sẽ bị tổn thương. Vậy nên dì Mây đã dứt kiên quyết chấm dứt tình cảm với chú San, khuyên chú nên quay về sống hạnh phúc với vợ.
Phẩm chất đáng quý nhất ở dì Mây là ý chí nghị lực, mạnh mẽ thoát ra khỏi cuộc chiến. Từ Trường Sơn trở về, dì phải chịu nhiều nỗi đau về cả tinh thần lẫn thể xác. Tuy rất buồn vì chú San đi lấy vợ, tình yêu và niềm tin bị phản bội nhưng dì vẫn sống, sống một cách cực kỳ đáng ngưỡng mộ. Dì chuyển ra ở với ông bên bến sông Châu, ngày ngày giúp ông chèo đò. Dù ngày nào cũng đưa mấy đứa trẻ cấp 3 qua sông nhưng chưa bao giờ lấy tiền của chúng, chỉ trêu mấy đứa bao giờ đi làm có lương rồi dì lấy cả thể. Ngoài việc chèo đò, dì còn làm thêm ở trạm xá do ở đó không có người. Những đêm mưa, dì đi bộ đến nhà bệnh nhân bằng cái chân giả hay nạng gỗ, dì bước chân bước thấp bước hụt. Thấy dì khổ quá, ông chủ tịch xã bảo dì tập đi xe đạp để ông rải đá cho đường dễ đi hơn. Dì gạt đi vì "trạm xá còn thiếu thuốc". Dì đã đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích của bản thân, chấp nhận đi bộ như "người tập thể dục" để dành tiền mua thuốc men. Tấm lòng cao cả, nhân hậu ấy được chia đều cho mọi người, cho cả chú San – người yêu cũ đã đi lấy vợ. Ngày vợ chú San khó sinh, trời cũng mưa tầm tã, dì đến đỡ đẻ cho vợ chú mặc lời cảnh báo của thím Ba. Dì làm hết sức để vợ chú được mẹ tròn con vuông, không hề bận tâm đến những khúc mắc trong tình cảm mà chỉ một lòng muốn cứu người. Tấm lòng nhân ái, thương người của dì còn được thể hiện ở việc nhận nuôi thằng Cún khi thím Ba mất. Tuy rằng chưa từng làm mẹ nhưng bằng tình yêu thương và đức tính tốt đẹp của mình, dì đã chăm sóc, nuôi dạy Cún như con đẻ.
Trong hoàn cảnh đau thương, mất mát nhất thì nhân cách cao quý của con người mới được khai thác và sáng lên rực rỡ. Dì Mây cũng vậy, số phận ngặt nghèo không thể đánh gục người con gái như dì mà càng thúc đẩy những đức tính tốt đẹp biểu hiện ra. Bằng việc khắc họa nhân vật thông qua lời nói, hành động, tác giả đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh dì Mây. Người con gái mang phẩm chất của người lính cụ Hồ dũng cảm, kiên cường song cũng có sự dịu dàng, nhân hậu đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam. Dì Mây đại diện cho rất nhiều mảnh đời vừa bước ra từ cuộc chiến. Tuy cuộc sống khó khăn nhưng họ vẫn cố gắng sống, hướng đến các giá trị tốt đẹp.
Thông qua tác phẩm "Người ở bến sông Châu" và nhân vật chính dì Mây, Sương Nguyệt Minh muốn tố cáo sự ác độc của chiến tranh. Chiến tranh đã qua đi nhưng hệ quả vẫn còn ảnh hưởng tới rất nhiều thế hệ. Đồng thời, ca ngợi những con người dũng cảm bước ra cuộc chiến. Họ vẫn tiếp tục sống và đối mặt với hậu quả của chiến tranh một cách kiên cường, mạnh mẽ.
Cuộc sống hậu chiến tranh là đề tài khá quen thuộc trong văn chương Việt Nam, nhất là khoảng cuối thế kỉ XX. Nhà văn quân đội Sương Nguyệt Minh cũng có tác phẩm nổi bật ở đề tài này. Truyện ngắn của ông mang tên "Người ở bến sông Châu". Hình ảnh nhân vật dì Mây kiên cường, mạnh mẽ trong tác phẩm đã để lại dấu ấn vô cùng sâu đậm cho độc giả.
Dì Mây hiện lên với ngoại hình xinh đẹp: tóc dài, đen, óng mượt. Mỗi lần gội đầu xong, dì phải đứng lên ghế để chải mới hết được mái tóc dài ấy. Hay những khi chạy ngược chiều gió, tóc dì xổ tung bay bồng bềnh như mây. Ngoài ra, dì còn sở hữu bầu ngực căng đầy, chiếc cổ trắng ngần. Đặc biệt, dì có đôi mắt sáng lung linh, huyền hoặc khiến bao chàng trai làng đắm chìm trong đôi mắt ấy, ôm mộng nằm mơ mỗi đêm. Vẻ đẹp của dì khiến bao trai làng si tình. Bởi vậy, người trong vùng thường nói dì Mây đẹp nhất làng. Ấy vậy mà vẻ đẹp thanh thuần, tươi trẻ ấy đã bị chiến tranh cướp đi. Từ chiến trường trở về, dì Mây phải chịu biết bao sự đổi thay của cơ thể. Mái tóc xơ, gãy rụng nhiều. Một bên chân mất đi do mảnh đạn phạt vào, nay chỉ có thể bước đi tập tễnh.
Bên cạnh đó, Dì Mây còn được miêu tả là người con gái thủy chung. Dì và chú San yêu nhau. Hai người họ có mối tình vô cùng đẹp đẽ, tinh khôi. Tuy phải chịu sự chia cách vì thời thế, chú San đi học ở nước ngoài còn dì trở thành cô y sĩ Trường Sơn nhưng trong tim hai người vẫn luôn có nhau. Suốt những năm tháng làm nhiệm vụ, không lúc nào dì Mây không nhớ chú, dì nói "Ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào em cũng viết tên anh". Tình yêu chính là động lực cho dì trong những ngày ở chiến trường. Thế nhưng số phận trêu ngươi, dì Mây bị nhầm lẫn rằng đã hi sinh, mọi người ai cũng tưởng dì không còn nữa. Ngày dì khoác ba lô về làng cũng là ngày chú San đi lấy vợ. Dù lòng đau như cắt nhưng dì Mây có thái độ rất rõ ràng, dứt khoát với chú San. Khi chú ngỏ lời "Mây! Chúng ta sẽ làm lại", dì kiên quyết từ chối "Không", "Anh về đi". Dì hiểu rằng chú đã có vợ, nếu tiếp tục mối tình này sẽ là sai trái. Vậy nên, dì Mây chấp nhận phần thiệt về mình, khuyên chú quay về sống hạnh phúc với người vợ mới cưới. Đây là một sự hi sinh đầy cao cả, cốt để vẹn toàn cho chú San và vợ.
Không chỉ hi sinh hạnh phúc riêng, dì Mây còn dành cả sự bao dung, vị tha cho vợ chồng chú San. Vợ chú khó sinh, dì không quản ngại mưa gió đến hộ sinh. Mặc lời cảnh báo của thím Ba rằng ca này khó, vợ chú San chỉ có một hai phần sống, sợ dì bị vạ lây, dì vẫn kiên quyết đỡ đẻ. Đây là tấm lòng nhân hậu, không vụ lợi, không tư thù cá nhân của một con người đầy đáng kính. Mất rất nhiều thời gian và công sức, dì cũng đưa đứa bé ra, vợ chú San cũng qua cơn nguy hiểm. Nhìn đứa bé, dì không kìm nổi cơn đau đến từ đáy lòng mà khóc lớn. Đọc đến đây, chúng ta không khỏi đau xót, thương cảm trước tình cảnh của dì Mây, người phụ nữ hi sinh quá nhiều để thành toàn cho người mình đã từng yêu. Vượt lên trên nỗi đau, dì Mây đã thể hiện tình cảm cao thương, bao dung của một con người giàu lòng nhân hậu.
Là một người lính Trường Sơn, dì Mây được tôi luyện nên đức tính mạnh mẽ, nghị lực. Tuy mang nhiều nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần nhưng dì vẫn tiếp tục cố gắng sống. Dì làm hai công việc là chèo đò và làm ở trạm xá. Mặc dù rất khó khăn nhưng ban ngày, dì vẫn bỏ đi cái chân giả, chống nạng gỗ leo lên sạp thuyền ngồi chèo đò phụ ông. Mấy đứa trẻ cấp 3 học ở trường huyện ngày nào cũng đi học qua sông mà dì chẳng bao giờ lấy tiền đò của chúng. Dì chỉ cười rồi nói "nợ đến khi có lương trả" cho qua chuyện. Nhiều đêm mưa, dì đi tập tễnh, khấp khểnh trên đường quê đến nhà người bệnh khám. Con đường từ bến sông đến trạm xá có mấy trăm mét nhưng lúc nào lưng áo dì cũng ướt đẫm mồ hôi. Ông chủ tịch xã thấy dì vất vả bèn gợi ý bảo dì tập xe đạp rồi ông sẽ cho sửa đường rải đá mạt. Dì từ chối với lí do "trạm xá còn thiếu thuốc". Đây là những chi tiết cho thấy sự cao thượng, nhân hậu của dì Mây. Một lần nữa, dì nhận phần thiệt về mình, muốn để dành tiền cho lợi ích chung của cả cộng đồng. Chúng ta không thể không cảm khái cho ý chí kiên cường, mạnh mẽ của dì trước những khó khăn sau chiến tranh.
Thông qua lời của những người lính công binh, chúng ta còn thấy được sự gan dạ, không sợ hiểm nguy của dì Mây. Trên chiến trường, dì không những hoàn thành nhiệm vụ của người y sĩ mà còn sẵn sàng dùng thân mình chắn cửa hầm che chở cho thương binh. Dì bị mảnh đạn phạt mất một bên chân, còn người lính bên trong hầm vẫn lành lặn. Dì Mây đã có hành động dũng cảm, thể hiện tinh thần quật cường, không sợ hi sinh xứng đáng với danh xưng người lính cụ Hồ.
Sau khi thím Ba mất giữa thời bình vì bị "đun te vướng bom bi", dì Mây nhận nuôi thằng Cún - con của thím Ba. Dù ba Mai đã từng ngỏ ý muốn nuôi thằng Cún nhưng dì gạt đi ngay, vì dì muốn thực hiện lời trăn trối của thím Ba. Cũng có thể dì ở bến sông Châu rất cô đơn nên muốn có thằng Cún ở bên cạnh bầu bạn. Dù vì lí do gì đi nữa thì một người chưa từng làm mẹ như dì đã dành hết sự yêu thương trong cuộc đời mình cho thằng Cún, nuôi dưỡng và chỉ bảo nó nên người.
Qua câu chuyện, ta thấy được dì Mây là người con gái có rất nhiều phẩm chất cao cả, tốt đẹp. Đức tính hi sinh, dành phần thiệt về phía mình vì lợi ích chung; lòng bao dung, vị tha, nhân hậu hay sự chung thủy trong tình yêu đều là những vẻ đẹp đáng tôn vinh của người phụ nữ Việt Nam. Ngoài ra, dì còn mang cho mình lòng gan dạ, kiên cường, sự quyết đoán, dứt khoát. Những nét tính cách đó đã giúp dì trở thành nhân vật tiêu biểu, đại diện cho một thế hệ người lính người bước ra từ cuộc chiến, cố gắng cống hiến cho đất nước mới hòa bình.
Bằng nghệ thuật khắc họa tính cách, phẩm chất của nhân vật thông qua lời nói, hành động với cách miêu tả tâm lí tài tình, Sương Nguyệt Minh đã vẽ lên bức chân dung của dì Mây - người con gái đáng ngưỡng mộ và ngợi ca.
Truyện ngắn "Người ở bến sông Châu" của tác giả Sương Nguyệt Minh đã gây cho độc giả nhiều ấn tượng sâu sắc về số phận các nhân vật sau chiến tranh, đặc biệt là dì Mây, dù phải chịu nhiều nỗi đau nhưng dì đã sống một cuộc đời cao đẹp. Dì Mây chính là đại diện cho con người Việt Nam kiên cường, dũng cảm và cũng rất bao dung, nhân ái.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Trên đây là dàn ý và bài văn mẫu Phân tích và đánh giá nhân vật dì Mây trong Người ở bến sông Châu. Các em dễ dàng nhận thấy được tình trạng bấy giờ, bước ra từ đống hoang tàn, đổ nát của chiến tranh, dì Mây khiến người đọc không khỏi cảm thương, chua xót. Để hiểu hơn về tác phẩm, các em có thể tham khảo thêm bài văn mẫu lớp 10 khác trên trang. Chúc các em học tốt môn Ngữ văn 10.