Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà

Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” - Nguyễn Tuân và hình tượng sông Hương trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Nội dung bài viết:
I. Dàn ý.
II. Bài văn mẫu.
1. Bài mẫu số 1.
2. Bài mẫu số 2.
3. Bài mẫu số 3.

Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà


I. Dàn ý Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà (Chuẩn)

1. Mở bài:

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân và hình tượng sông Đà trong tác phẩm "Người lái đò sông Đà".
- Giới thiệu về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và hình tượng sông Hương trong tác phẩm " Ai đã đặt tên cho dòng sông".

2. Thân bài:

a. Trình bày khái quát về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm "Người lái đò sông Đà".
- Nguyễn Tuân (1910 - 1988) là một định nghĩa về cái đẹp, ông luôn săn tìm và viết về cái đẹp.
- Tác phẩm "Người lái đò sông Đà" là kết quả của chuyến đi thực tế mà Nguyễn Tuân thu hoạch được khi tới với Tây Bắc rộng lớn, xa xôi.

b. Trình bày khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông".
- Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937) có phong cách nghệ thuật độc đáo với sở trường là tùy bút, bút kí.
- Tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" được rút từ tập bút kí cùng tên, được tác giả viết tại Huế, xuất bản lần đầu năm 1986.

c. Cảm nhận về hình tượng sông Đà trong tác phẩm "Người lái đò sông Đà":

* Nội dung:

- Sông Đà hiểm trở, mang vẻ đẹp hung bạo, dữ dội:
+ Đá bờ sông dựng "vách thành" gợi độ cao lên đến tận cùng và độ hẹp đến mức tối đa mang đến cảm giác sợ hãi về sự nhỏ nhoi của người đi trên sông trước cái hùng vĩ, bí hiểm của thiên nhiên.
+ Ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng "dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió" như cửa tử, cửa sinh.
+ Quãng Tà Mường Vát là cái hút nước đáng sợ ở phía dưới Sơn La, "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", nó tàn bạo, ghê gớm đến mức không thuyền nào dám đến gần.
+ Trên một quãng thủy chiến ở mặt trận thì tiếng thác nước dữ dội giống như loài thủy quái khổng lồ nham hiểm và hung ác.
+ Sông Đà còn là nơi tập trung của rất nhiều loại đá khác nhau, tới cái thác "thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá", một số hòn còn "nhổm cả dậy để vồ lấy con thuyền".
+ Đến sát với thạch trận, dòng sông như muốn nuốt chửng con thuyền, "rung rít lên như tuyếc - bin thủy điện", nó bày binh bố trận như "đô vật", "bóp chặt lấy bộ hạ người lái đò".

- Sông Đà mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình và giàu sức hấp dẫn:
+ Sông Đà làm nên nét riêng của vùng miền Tây Bắc, con sông thơ mộng "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình".
+ Nước sông Đà đa dạng sắc màu và có sự thay đổi theo từng mùa khác nhau.
+ Sông Đà gợi cảm như là một cố nhân, ánh lên vẻ đẹp mang màu sắc Đường thi.
+ Cảnh thiên nhiên hai bên bờ sông mang dáng vẻ tĩnh mịch, yên ả.
+ Dòng sông Đà đã thôi đi cái tính ào ạt dữ dội để trở về với những thanh lặng giữa đời thường "bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử", "bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa".
+ Dòng sông trở nên hiền hòa với âm thanh của tiếng cá đập nước, "lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi".

* Nghệ thuật:
- Tác giả đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, liệt kê, kể, tả để thể hiện đối tượng.
- Nhà văn đã vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, kết hợp cách miêu tả, bình luận trữ tình để tạo nên nét riêng, khác biệt của dòng sông Đà.

d. Cảm nhận về hình tượng sông Hương trong tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông":

* Nội dung:

- Sông Hương trầm lặng và có một chút lẳng lơ, kín đáo dưới góc độ Địa lí:
+ Nhìn từ cội nguồn, sông Hương là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn, sông Hương tựa như "một bản trường ca của rừng già" với tiết tấu hùng tráng, dữ dội.
+ Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại "lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng".
+ Sông Hương hiện ra như một cô gái Digan "phóng khoáng và man dại", sông Hương trở thành "người mẹ phù sa" sâu thẳm với một bản lĩnh gan dạ.
+ Trước khi vào kinh thành Huế, sông Hương trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô.
+ Sông Hương là người con gái đẹp "nằm ngủ mơ màng giữa những cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại".
+ Sông Hương vui tươi hẳn lên khi chảy vào thành phố Huế, dòng sông như tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu.

- Sông Hương mang vẻ đẹp hùng ca, ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy, xa xôi.
+ Sông Hương trở thành chứng nhân lịch sử, được khơi gợi trong "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi.
+ Dòng sông đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam tổ quốc, vẻ vang soi bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ.

- Sông Hương được nhìn nhận dưới góc độ văn hóa và thơ ca:
+ Sông Hương được gắn với một nền âm nhạc cổ điển Huế, sông Hương trở thành "người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya".
+ Sông Hương được đặt trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận, được liên tưởng với "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.
+ Sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của những người nghệ sĩ bởi mỗi nhà văn, nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó.

* Nghệ thuật:
- Qua hình tượng sông Hương cho thấy cái "tôi" uyên bác, cái "tôi' nặng lòng xứ Huế của tác giả.
- Sông Hương được nhìn nhận ở đa phương diện, được nhân hóa giống với một cô gái, một người mẹ phù sa.
- Biện pháp kể, tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa đã làm nổi bật hình ảnh sông Hương giữa xứ Huế.

e. Điểm tương đồng giữa hình tượng sông Đà trong "Người lái đò sông Đà" và sông Hương trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông":
- Sông Đà và sông Hương đều mang vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội.
- Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình.
- Cả hai dòng sông đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác của tác giả.

f. Điểm khác biệt giữa hình tượng sông Đà trong "Người lái đò sông Đà" và sông Hương trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông":
- Sông Đà nổi bật với vẻ đẹp dữ dội, phi thường và khác lạ, mỗi lần vượt thác trên sông Đà là một lần chiến đấu của ông lái đò với thần sông, thần đá.
- Sông Hương nổi bật ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, được miêu tả qua chiều sâu của văn hóa xứ Huế.

g. Đánh giá:
- Qua hình tượng hai dòng sông cho thấy hai tác giả đều là người yêu thiên nhiên tha thiết và tự hào với vẻ đẹp của non sông đất nước Việt Nam.
- Mỗi nhà văn đều có phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc khắc họa hình tượng hai dòng sông giúp người đọc có cái nhìn đa chiều về vẻ đẹp quê hương đất nước mình.
- Liên hệ trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thiên đất nước.

3. Kết bài:

- Khái quát lại hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" và "Người lái đò sông Đà".


II. Bài văn mẫu Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà (Chuẩn)

 

1. Bài văn Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà hay số 1

1.1. Dàn ý So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương: 

1.1.1. Mở bài:
- Giới thiệu về hai tác phẩm "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân và "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường. 
1.1.2. Thân bài:
1.1.2.1. Cảm nhận về hình tượng sông Đà trong "Người lái đò sông Đà":

a) Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
- Nguyễn Tuân là một nhà văn có phong cách viết độc đáo, phóng khoáng, tài hoa, uyên bác.
- Bài kí "Người lái đò sông Đà" được rút ra từ tập bút kí "Sông Đà" - thành quả của chuyến đi Tây Bắc năm 1960 của tác giả.
- Nội dung chính của tác phẩm viết về dòng sông Đà với hai vẻ đẹp hoàn toàn đối lập nhau là sự hùng vĩ, dữ dội, bạo ngược và vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình cùng với người lái đò sông Đà mang dáng dấp của người nghệ sĩ tài hoa. 
b) Cảm nhận về hình tượng sông Đà:
* Dòng sông Đà hung tàn, bạo ngược:
- Những đoạn sông có nước, đá, sóng, gió,... xô nhau, "cuồn cuộn luồng gió gùn ghè" như muốn "lật ngửa bụng thuyền ra".
- Những cái hút nước vang lên âm thanh đáng sợ, như muốn nhấn chìm mọi con thuyền đi ngang qua. 
- Tiếng thác nước réo khiến con người cảm thấy rợn ngợp, sợ hãi trước sự hùng vĩ của thiên nhiên.
- Đá thác sông Đà bày thạch trận quyết chiến với người lái đò.
* Dòng sông Đà thơ mộng trữ tình:
- Đứng từ góc độ trên cao nhìn xuống, "sông Đà như một áng tóc trữ tình", ẩn hiện trong:
+  "mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai".
+ "cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
- Màu nước sông Đà thay đổi theo mùa: 
+ Mùa xuân, "dòng xanh ngọc bích".
+ Mùa thu, nước sông "lừ lừ chín đỏ".
- Ánh nắng chiếu lên sông Đà khiến mặt nước "loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt".
- Cảnh hai bên bờ sông:
+ "Cảnh ven sông ở đây lặng tờ".
+ "nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa"
=> "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa"
c) Nghệ thuật:
- Tác giả sử dụng thuật ngữ của nhiều ngành nghề khác nhau để miêu tả dòng sông.
- Các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, điệp ngữ,... gợi nhiều liên tưởng, tưởng tượng.
- Kết hợp các phương thức biểu đạt khác nhau như tự sự, miêu tả, biểu cảm.
2.2. Cảm nhận về hình tượng sông Hương trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?":
a) Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:

- Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn có sở trường chuyên viết viết tùy bút, bút kí.
- Tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" viết về dòng sông Hương chảy quanh xứ Huế, được rút ra từ tập bút kí cùng tên.
b) Cảm nhận về hình tượng sông Hương:
* Sông Hương nhìn từ góc độ địa lí:
- Khi ở thượng nguồn, dòng sông hoang dại, mạnh mẽ y như một "bản trường ca của rừng già", là "cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại".
- Từ Tuần đến chùa Thiên Mụ, sông Hương như người con gái ngủ quên giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. 
- Sông Hương uốn mình, chuyển hướng nhiều lần để đi gặp "thành phố tương lai".
- Từ đây, "sông Hương vui tươi hẳn lên", uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến. 
- Sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Đấy chính là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.
- Rời khỏi Huế, dòng sông chảy chếch về Hướng bắc, rồi đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh.
* Sông Hương nhìn từ góc độ văn hóa - lịch sử: 
- Từ góc độ lịch sử:
+ Trong sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi, từ xa xưa, sông Hương có tên gọi là Linh Giang.
+ Dòng sông đã chiến đấu để bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc qua nhiều thế kỉ.
+ Soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ.
+ Sông Hương đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám cùng những chiến công rung chuyển trời đất.
- Từ góc độ văn hóa: 
+ Là dòng sông đã sản sinh ra toàn bộ nền âm nhạc Huế. 
+ Là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca.
c) Nghệ thuật:
- Cái "tôi" uyên bác, đầy yêu thương dành cho xứ Huế.
- Những biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh giàu sức gợi.
- Miêu tả và biểu cảm được kết hợp nhuần nhuyễn để làm nổi bật hình ảnh sông Hương ôm trọn xứ Huế. 
1.1.2.3. So sánh, nhận xét về hình tượng của hai dòng sông:
a) Sự giống nhau:
- Cả hai dòng sông đều có vẻ đẹp hùng vĩ, phóng khoáng và thơ mộng, trữ tình
- Cả hai tác giả đều là cây viết bút kí đầy tài hoa, uyên bác, sử dụng nhiều kiến thức lịch sử, văn hóa.
b) Sự khác nhau:
- Dòng sông Đà hung bạo, ngang ngược được miêu tả tỉ mỉ, cẩn thận hơn với từng quãng, từng khúc sông.
- Dòng sông Hương được nhấn mạnh ở vẻ thơ mộng trữ tình, là dòng sông của thi ca, lịch sử. 
1.1.3. Kết bài:
- Khái quát lại về hình tượng sông Đà và sông Hương trong hai tác phẩm. 

1.2. Bài mẫu Cảm nhận về hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà

Giữa vô vàn những sự vật tuyệt đẹp, những dòng sông thường may mắn được chọn lựa để đưa vào trong văn học. Có rất nhiều những tác phẩm viết về dòng sông trên thế giới. Tại Việt Nam, có hai bài kí về sông rất nổi tiếng là "Người lái đò sông Đà" của nhà văn Nguyễn Tuân và "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" của Hoàng Phủ Ngọc Tường. 

Nguyễn Tuân là một nhà văn nổi tiếng có lối viết độc đáo, phóng khoáng, tài hoa, uyên bác. "Người lái đò sông Đà" là bài tùy bút được rút ra từ tập "Sông Đà" - thành quả của chuyến đi Tây Bắc năm 1960 của tác giả. Tác phẩm viết về dòng sông Đà với hai vẻ đẹp hoàn toàn đối lập nhau là sự hùng vĩ, dữ dội, bạo ngược và vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình cùng với người lái đò sông Đà mang dáng dấp của người nghệ sĩ tài hoa. 

Đà giang hung bạo, ngang ngược được nhà văn miêu tả rất cụ thể, tỉ mỉ ở từng khúc sông. Có đoạn sông nước, đá, sóng, gió,... xô nhau, "cuồn cuộn luồng gió gùn ghè" như muốn "lật ngửa bụng thuyền ra". Có đoạn lòng sông như những cái hút nước vang lên âm thanh đáng sợ, như muốn nhấn chìm mọi con thuyền đi ngang qua. Ngoài ra, những âm thanh của tiếng thác nước réo như "van xin", "khiêu khích", như tiếng "một ngàn con trâu mộng" kêu đau đớn giữa rừng lửa khiến cho con người cảm thấy sợ hãi, rơn ngợp. Ở đoạn cuối, thác đá sông Đà còn bày thạch trận để quyết chiến với người lái đò.

Thế nhưng khi xuống đến hạ lưu, dòng sông lại thơ mộng, trữ tình trở lại. Nó như một "áng tóc trữ tình" ẩn hiện trong "mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và "cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Màu nước sông Đà thay đổi theo mùa: Mùa xuân, "dòng xanh ngọc bích". Mùa thu, nước sông "lừ lừ chín đỏ". Ánh nắng chiếu lên sông Đà khiến mặt nước "loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt". Cảnh hai bên bờ sông tươi đẹp nhưng lại "lặng tờ" không thấy bóng dáng con người khiến nhà văn tưởng tượng "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa".

Để miêu tả dòng sông Đà với hai tính cách hoàn toàn đối lập, Nguyễn Tuân đã kết hợp các phương thức biểu đạt khác nhau như tự sự, miêu tả, biểu cảm. Sử dụng thuật ngữ của nhiều ngành nghề khác nhau để miêu tả dòng sông và các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, điệp ngữ,... gợi nhiều liên tưởng, tưởng tượng.

Đến với tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường - nhà văn có sở trường viết bút kí. Tiêu biểu trong những sáng tác của ông là "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" - bài kí viết về dòng sông Hương chảy quanh xứ Huế, được rút ra từ tập bút kí cùng tên.

Tác giả đã chia sẻ cảm nhận về dòng Hương giang dưới góc độ địa lí và văn hóa, lịch sử. Ông đã miêu tả dòng sông từ đầu nguồn đến khi tạm biệt thành phố Huế. Khi ở thượng nguồn, dòng sông hoang dại, mạnh mẽ y như một "bản trường ca của rừng già", một "cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại". Từ Tuần đến chùa Thiên Mụ, con sông như người con gái ngủ quên giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Rồi, dòng uốn mình, chuyển hướng nhiều lần để đi gặp "thành phố tương lai". Từ đây, "sông Hương vui tươi hẳn lên", uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến. Dòng sông khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Đấy chính là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Rời khỏi Huế, dòng sông chảy chếch về hướng bắc, rồi đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh. 

Dưới góc độ lịch sử, sông Hương đã xuất hiện từ xa xưa trong sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi với tên gọi là Linh Giang. Dòng sông đã chiến đấu để bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc qua nhiều thế kỉ, soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ. Và đặc biệt sông Hương đi qua Cách mạng tháng Tám cùng những chiến công rung chuyển. Không chỉ vậy, khi nhìn dưới góc độ văn hóa, ta sẽ nhận thấy có rất nhiều bài thơ ca ngợi dòng sông xinh đẹp, chỉ thuộc thành phố Huế. Trên mặt nước cũng đã sản sinh ra toàn bộ nền âm nhạc của xứ sở mộng mơ. 

Dưới góc nhìn đa chiều, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cho người đọc thấy được hành trình đến với xứ Huế của dòng Hương giang, biết thêm về di tích, văn hóa Huế. Biện pháp miêu tả và biểu cảm được kết hợp nhuần nhuyễn để làm nổi bật hình ảnh sông Hương ôm trọn xứ Huế. Những biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh giàu sức gợi cũng đã góp phần thể hiện cái  "tôi" uyên bác, đầy yêu thương của tác giả dành cho xứ Huế.

Hai tác phẩm "Người lái đò sông Đà" và "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" đều có một vẻ đẹp riêng, nét đặc trưng riêng không thể so sánh. Nhưng để nhận xét chung, người đọc có thể dễ dàng nhận ra rằng cả hai tác giả đều là cây viết bút kí đầy tài hoa, uyên bác, sử dụng nhiều kiến thức lịch sử, văn hóa trong tác phẩm của mình. Cả hai dòng sông đều có vẻ đẹp hùng vĩ, phóng khoáng và thơ mộng, trữ tình. Thế nhưng "Người lái đò sông Đà" lại nhấn mạnh hình ảnh dòng sông hung bạo, ngang ngược với cái dữ dội, hùng vĩ ở từng khúc sông. Dòng Hương giang trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông" lại  được nhấn mạnh ở vẻ thơ mộng trữ tình, là dòng sông của thi ca, lịch sử. 

Vậy, mỗi tác giả lại có một cách riêng để khắc họa hai hình tượng con sông ở hai miền Bắc - Trung. Nhưng thông qua đó, người đọc đều thấy được tình yêu thiên nhiên đất nước và niềm tự hào trước non sông gấm vóc của cả hai nhà văn. 

 - - - - - - - - - - - - - - - - - - -  HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Hình tượng sông Đà và sông Hương trong hai tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" và "Người lái đò sông Đà" có cả những nét chung và nét riêng khác lạ, mới mẻ. Mời em tham khảo thêm những bài mẫu khác trên Taimienphi.vn như: Vẻ đẹp trữ tình của hình tượng dòng sông qua tác phẩm Người lái đò sông đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông; Phân tích những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân thể hiện trong Người lái đò sông Đà; Cảm nhận về danh xưng chất vàng mười Tây Bắc mà Nguyễn Tuân dành tặng ông lái đò trong Người lái đò sông Đà.

 

2. Bài văn Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà hay số 2

"Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng"

(Tế Hanh)

Dòng sông vốn là một hình ảnh quen thuộc trong văn học, mỗi một dòng sông được gợi lên với những nét đặc trưng riêng biệt, khác nhau và đều in đậm dấu ấn phong cách sáng tác của mỗi nhà văn, nhà thơ. Thế nhưng ở họ có một điểm chung hội ngộ đó chính là tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, tha thiết. Hình ảnh dòng sông Đà trong "Người lái đò sông Đà" của tác giả Nguyễn Tuân và hình ảnh dòng sông Hương" trong tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho chúng ta một góc nhìn đặc biệt về hai dòng sông của hai miền tổ quốc.

Nguyễn Tuân (1910 - 1988) là một định nghĩa về cái đẹp, ông luôn săn tìm, truy đuổi và viết về cái đẹp. Tác phẩm "Người lái đò sông Đà" cũng là một trong những quan niệm về cái đẹp của ông. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế mà Nguyễn Tuân thu hoạch được khi tới với Tây Bắc rộng lớn, xa xôi. Đem lòng gửi gắm thiên nhiên giống Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có những cảm nhận riêng biệt về nét đẹp xứ Huế. Ông là người có phong cách nghệ thuật độc đáo với sở trường là tùy bút, bút kí. Tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường được rút từ tập bút kí cùng tên, được tác giả viết tại Huế, xuất bản lần đầu năm 1986.

Ở phần đầu của tác phẩm, Sông Đà hiểm trở được Nguyễn Tuân phác họa với vẻ đẹp hung bạo và dữ dội như muốn thách thức sự gan dạ của những người đi trên sông. Đá bờ sông dựng "vách thành" gợi độ cao lên đến tận cùng và độ hẹp đến mức tối đa mang đến cảm giác sợ hãi về sự nhỏ nhoi của người đi trên sông trước cái hùng vĩ, bí hiểm của thiên nhiên. Nguyễn Tuân không giống như những nhà Địa lí thường đo đạc bằng cách dùng thước để vạch những đường kinh tuyến, vĩ tuyến mà ông miêu tả về độ hẹp, độ cao, độ sâu của thác đá bên bờ sâu bằng những hình ảnh, câu văn gợi cảm giác ghê rợn. Những ngôn từ của Nguyễn Tuân như đang nhảy múa trong trí tưởng tượng của độc giả, "vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu", hẹp đến mức đứng bên này bờ chỉ cần dùng tay ném nhẹ là hòn đá đã sang bên kia vách mà ngay cả con hổ, con nai cũng có thể nhảy qua. Dòng sông hiện lên như một con thủy quái ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng "dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm" như cửa tử, cửa sinh đem lại cảm giác đáng sợ cho người lái đò nếu không thật chắc tay, vững chèo. Quãng Tà Mường Vát là cái hút nước đáng sợ ở phía dưới Sơn La, "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới", nó tàn bạo, ghê gớm đến mức không thuyền nào dám đến gần. Tiếp đến quãng thủy chiến ở mặt trận thì tiếng thác nước dữ dội giống như loài thủy quái khổng lồ nham hiểm và hung ác "rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".

Không những ghê rợn như vậy, sông Đà còn là nơi tập trung của rất nhiều loại đá khác nhau, tới cái thác "thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá", một số hòn còn "nhổm cả dậy để vồ lấy con thuyền". Những hòn Đá này trông như những sinh vật thể có trái tim, có tâm hồn và khối óc để lúc nào cũng giương ra cản trở sự di chuyển của con người. Dòng sông đã bày ra một thạch trận với những gương mặt đá "ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này". Đến sát với thạch trận, dòng sông như muốn nuốt chửng con thuyền, "rung rít lên như tuyếc - bin thủy điện", nó bày binh bố trận như "đô vật", nó chơi những đòn hiểm độc nhất để "bóp chặt lấy bộ hạ người lái đò". Trận thủy chiến này như đã được định sẵn với hàng tiền vệ có vai trò dụ dỗ con thuyền đối phương, nó giống như một trò đánh nhử của du kích để lừa ông lái đò vào trận địa. Chúng huy động đầy đủ cả đá, nước, thác để đứng hỗ trợ nhau bẻ gãy cán chèo, thúc hối vào bụng, vào mông con thuyền. Sang đến trùng vi thạch trận vòng thứ hai, chúng tăng cường thêm cửa tử, cửa sinh cùng hô ứng để đánh lừa con thuyền rơi vào cửa tử. Nếu vòng một đủ cho ta thấy sự nguy hiểm thì cấp độ vòng hai tăng dần hơn cả bốn cửa tử, một cửa sinh khiến cho người lái đò khó mà tìm thấy lối thoát. Dòng thác "hùm beo" lúc nào cũng trong trạng thái sùng sục, sôi hồng hộc đến đáng sợ. Thế nhưng trước thiên nhiên đáng sợ ấy, ông lái đò đã thể hiện khá rõ tài năng của mình. Nhà đò nhìn những thằng đá tướng đã "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Đến với trùng vi thạch trận thứ ba thì sự sống của con người bị thu hẹp lại bởi cả hai bên đều là luồng chết, "cái luồng sống này lại ở giữa đoạn đá hậu vệ của con thác" đòi hỏi sự khéo léo của người lái đò thì mới có thể vượt qua được. Để có thể biến sông Đà thành một con thủy quái hung tợn, Nguyễn Tuân đã tả một cách chi tiết, tỉ mỉ và gây cảm giác mạnh. Sông Đà hiện lên trong trạng thái vận động liên tục dưới khả năng tưởng tượng tinh tế của nhà văn.

Không chỉ nổi bật với vẻ đẹp hùng vĩ mạnh mẽ, sông Đà còn mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình và giàu sức hấp dẫn đến lạ thường. Phải chăng yếu tố trữ tình đã làm mềm đi văn bản để phù hợp với tình cảm, trạng thái con người Việt Nam hơn. Sông Đà đã làm nên nét riêng của vùng miền Tây Bắc, con sông thơ mộng "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình". Đây là một liên tưởng đầy bất ngờ và thú vị, dòng sông thướt tha như bóng dáng của một người con gái với mái tóc đen dài óng ả. Dòng sông đã mất đi cái vẻ ngạo nghễ của thác nước mà mang trong mình một vẻ đẹp nữ tính đầy chất thơ. Dưới sự quan sát tường tận và am hiểu chi tiết về dòng sông cho thấy hình ảnh sông Đà được gợi ở nhiều góc độ khác nhau. Nước sông Đà đa dạng sắc màu và có sự thay đổi theo từng mùa. Mùa xuân thì nước sông có màu "xanh ngọc bích" chứ không giống màu xanh của sông Lô, sông Gâm. Sang mùa thu nước nước sông Đà "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu" thế nhưng dòng sông chưa bao giờ mang một màu "đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào". Sông Đà còn được coi như là một cố nhân với những phát hiện, liên tưởng đầy bất ngờ và thú vị. Sông Đà được miêu tả gợi cảm như một cố nhân ánh lên vẻ đẹp "màu nắng tháng ba Đường thi", nó giống như một người bạn cố tri để nhà văn bắt gặp được một mảnh tâm hồn mình và phải thốt lên rằng: "Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Không còn sự dữ dội như ở thác đá, cảnh thiên nhiên hai bên bờ sông mang dáng vẻ tĩnh mịch, yên ả: "Cảnh ven sông ở đây lặng tờ", "tịnh không một bóng người" và đậm chất thơ với những lá ngô non đầu mùa đang nhú còn "cỏ gianh thì đang ra nõn búp", "con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương". Nhà văn đã đặt sông Đà trong mối quan hệ lịch sử để bàn luận: "Hình như từ đời Lí, đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Dòng sông đã thôi đi cái tính ào ạt dữ dội để trở về với những thanh lặng giữa đời thường "bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử", "bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Dòng sông trở nên hiền hòa, thơ ngộ với âm thanh của tiếng cá đập nước, "lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi". Khúc vĩ thanh của sông Đà đã in vẻ đẹp bản năng độc đáo của cái tôi Nguyễn Tuân, sông Đà dưới ngòi bút của tác giả đã tuôn chảy dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình.

Tác giả đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa dòng sống giống với vẻ đẹp của một con người, liệt kê, kể, tả để thể hiện đối tượng. Vẻ đẹp của sông Đà đã được nhìn nhận dưới con mắt của một người nghệ sĩ tài hoa. Nhà văn đã vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, kết hợp cách miêu tả, bình luận trữ tình để tạo nên nét riêng, khác biệt của dòng sông Đà.

Cùng viết về chủ đề dòng sông nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường lại ấn tượng với dòng sông Hương của xứ Huế. Nếu như sông Đà hiện lên trong những trang viết của Nguyễn Tuân nổi bật ở sự hung bạo với những thác đá thì Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có những quan sát trực tiếp, tìm hiểu sông Hương từ thượng nguồn để phát hiện ra nhiều vẻ đẹp khác nhau. Với ông sông Hương trầm lặng và có một chút lẳng lơ, kín đáo từ góc nhìn Địa lí. Nhìn từ cội nguồn, sông Hương là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn, sông Hương tựa như "một bản trường ca của rừng già" với tiết tấu hùng tráng, dữ dội. Sông Hương khi thì rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc thì mãnh liệt vượt qua ghềnh thác nhưng có khi còn cuộn xoáy như cơn lốc dưới đáy vực sâu. Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại "lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Bằng biện pháp nhân hóa, sông Hương hiện ra như một cô gái Digan "phóng khoáng và man dại" với một tâm hồn tự do, trong sáng. Sông Hương trở thành "người mẹ phù sa" sâu thẳm bồi đắp cho bãi bồi bên sông. Trước khi vào kinh thành Huế, sông Hương trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, nó đã phải trải qua một hành trình đầy gian truân và thử thách trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả. Sông Hương là người con gái đẹp "nằm ngủ mơ màng giữa những cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại". Sông Hương đã thay đổi hình hài, làm mềm đi nét nữ tính của mình, "chuyển dòng một cách liên tục", "uốn mình theo những đường cong thật mềm như một cuộc kiếm tìm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó". Sông Hương mềm như tấm lụa với màu sắc "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím" để dòng chảy trôi đi thực chậm. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng tiên được đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân, có ý thức kiếm tìm về thành phố. Sông Hương "vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long" khi chảy vào thành phố Huế, dòng sông như tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu. Sông Hương đánh thức được linh hồn của dân tộc, khác hẳn với những dòng sông khác ở cảnh "lập lòe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài" của một linh hồn mô tê xưa cũ.

Sông Hương mang vẻ đẹp hùng ca, ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy, xa xôi. Sông Hương trở thành chứng nhân lịch sử, được khơi gợi trong "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi. Dòng sông đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam tổ quốc, "vẻ vang soi bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ". Nó đã chứng kiến thành công của Cách mạng tháng Tám, cùng "niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân 1968".

Không chỉ được đặt dưới góc nhìn địa lí hay trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc mà Sông Hương còn được nhìn nhận dưới góc độ văn hóa và thơ ca. Trong cách nhìn với âm nhạc, sông Hương được gắn với một nền âm nhạc cổ điển Huế, sông Hương trở thành "người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya". Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ với việc nghe hát trên sông Hương. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng "toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya". Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều với một "phiến trăng sầu". Sông Hương được đặt trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận. Từ âm thanh của cuộc sống, tác giả đã liên tưởng đến tiếng nước vỗ mạn thuyền hình thành lên những điệu hò dân gian. Từ góc độ thơ ca, sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của bất kì người nghệ sĩ nào bởi mỗi nhà văn, nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm dậy lên những vần thơ biếc xanh của Tản Đà "Dòng sông trắng, lá cây xanh" cho thấy sự đồng cảm của tác giả về một sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.

Hình tượng sông Hương trong tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" đã cho thấy cái "tôi" uyên bác, cái "tôi' nặng lòng xứ Huế của tác giả. Sông Hương được nhìn nhận ở đa phương diện, được nhân hóa giống với một cô gái, một người mẹ phù sa giữa lòng thành phố. Biện pháp kể, tả được nhà văn kết hợp nhuần nhuyễn cùng với sự tài hoa trong ngòi bút của tác giả đã làm nổi bật hình ảnh sông Hương xứ Huế.

Mỗi nhà văn từng được ví như một thứ hoa, một loài chim giữa cánh rừng đại ngàn văn học bởi mỗi loài hoa tỏa một hương thơm riêng cũng như mỗi thứ chim cất lên một giọng hót riêng nhưng ở họ đều có những điểm chung nhất định. Với Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường thì hình ảnh sông Đà và sông Hương đều được tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình có tính cách mới mẻ với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt. Ở cả hai nhà văn đều có một tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương tha thiết bởi "Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất đã hóa tâm hồn". Sông Đà và sông Hương đều mang vẻ đẹp hùng vĩ và dữ dội. Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo, dữ dội của thác đá hay các trùng vi thạch trận. Còn sông Hương thì chảy dữ dội như một bản trường ca của rừng già, tựa cô gái Digan phóng khoáng và man dại. Không chỉ giống nhau ở vẻ đẹp hung bạo, sông Đà và sông Hương cũng đều sở hữu một vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình. Dáng sông Đà mềm mại tựa mái tóc tuôn dài của người con gái, nước sông thay đổi qua từng mùa mang vẻ hoang sơ, cổ kính. Sông Hương có dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những rặng dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng, sông Hương mang vẻ đẹp của người con gái nằm ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đánh thức. Điều đặc biệt hơn cả là cả hai dòng sông đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác của tác giả. Sông Đà là nơi hội tụ nét đặc trưng tiêu biểu của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ uy nghiêm nhưng cũng rất thơ mộng trữ tình. Còn sông Hương là dòng sông của âm nhạc, của thơ ca, của lịch sử, gắn liền với những nét đặc trưng về văn hóa, vẻ đẹp của con người xứ Huế. Cả hai tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng của hai dòng sông.

Chính điểm khác biệt mới là mấu chốt tạo nên sự thành công của hai tác phẩm. Sông Đà nổi bật với vẻ đẹp dữ dội, phi thường và khác lạ, mỗi lần vượt thác trên sông Đà là một lần chiến đấu của ông lái đò với thần sông, thần đá. Tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật sự tài hoa của người lái đò bởi sông Đà trông như một chiến địa dữ dội. Dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì sông Hương nổi bật ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, được miêu tả qua chiều sâu của văn hóa xứ Huế, nó như một người mẹ phù sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa từ bao đời nay. Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu, thông qua hình tượng sông Hương nhà văn đã thể hiện nét đẹp lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế.

Qua hình tượng dòng sông Đà và sông Hương, ta bắt gặp sự tương đồng giữa hai cái tôi tài hoa, uyên bác và tình yêu thiên nhiên tha thiết của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Mỗi nhà văn đều có phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc khắc họa hình tượng hai dòng sông giúp người đọc có cái nhìn đa chiều về vẻ đẹp quê hương đất nước mình. Trước thiên nhiên dễ lay động lòng người như vậy, mỗi cá nhân chúng ta cần có trách nhiệm trong việc bảo vệ cảnh quan thiên đất nước để đất nước ngày càng tươi đẹp hơn.

"Có phải điều còn lại với mỗi nhà văn chính là giọng điệu của riêng mình". Có thể thấy qua hai hình tượng sông Đà trong "Người lái đò sông Đà" của tác giả Nguyễn Tuân và sông Hương trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định cái "tôi" riêng biệt của mỗi nhà văn. Bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết, hai nhà văn đã thành công trong việc xây dựng hai dòng sông riêng biệt của cuộc đời mình.

 

3. Bài văn Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà hay số 3

3.1. Dàn ý Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà.

3.1.1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Khái quát về hình tượng hai dòng sông.
3.1.2. Thân bài:
3.1.2.1. Phân tích hình tượng sông Đà:
a) Sông Đà hung bạo:
- "Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời"
- "Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu".
- "Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia".
- "Cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". 
- "Những cái hút nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc". 
=> Sông Đà được nhìn như một hung thần, gây cảm giác hãi hùng về cuộc đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra nơi đây qua hàng bao thế kỉ.
- "Thác nước nghe như oán trách, rồi lại như van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo".
- "Có lúc, nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa". 
b) Sông Đà trữ tình:
- "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
=> Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như người thiếu nữ Tây Bắc với vẻ đẹp trữ tình, trẻ trung và duyên dáng. 
- Nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân, nước sông Đà màu xanh ngọc bích. 
- Và chưa bao giờ con sông lại có màu đen như cách thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra để đổ mực Tây vào. 
- Cảnh ven sông ở đây lặng như tờ. 
=> Sông Đà hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân không phải là con sông vô tri, vô giác mà là một sinh thể có tâm hồn và tính cách riêng. 
3.1.2.2. Hình tượng sông Hương:
a) Sông Hương là một nhân vật:
- Dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất đó là thành phố Huế. 
- Ở góc nhìn thi ca, với đôi mắt tài hoa, lãng mạn của một tâm hồn nghệ sĩ Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn sông Hương như một người con gái đẹp. 
=> Tác giả bắt đầu dấn thân vào hành trình khám phá vẻ đẹp của sông Hương ở nhiều góc độ.
b) Sông Hương từ góc nhìn địa lí:
- Sông Hương nơi thượng nguồn - bản trường ca của rừng già. 
- Sông Hương mang sắc đẹp trí tuệ và dịu dàng của "một người mẹ phù sa".
=> Nhưng không bao giờ muốn tự bộc lộ mình như một người mẹ bao dung, hiền từ.
- Ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương hiện lên như một người con gái đẹp, một người tình dịu dàng trong cuộc tìm kiếm và đuổi bắt tình yêu. 
- Khi vừa ra khỏi rừng, sông Hương chuyển dòng một cách liên tục "vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm". 
- Trong lòng thành phố Huế, sông Hương giống như một người đi xa đã tìm đúng đường về:
+ Tâm trạng vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. 
+ Nó kéo một nét thẳng thực yên tâm để nơi cuối đường nhìn thấy tín hiệu của Huế là cây cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời. 
- Trong lòng thành phố, Huế rang rộng vòng tay đón sông Hương và dòng sông nằm trọn trong lòng thành phố của mình. 
c) Sông Hương dưới góc nhìn lịch sử:
+ Là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng.
+ Là dòng sông viễn châu đã bảo vệ biên giới phía Nam của nước Đại Việt suốt những thế kỉ trung đại. 
+ Là dòng sông soi bóng kinh thành phú xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ thế kỉ XVIII.
+ Là dòng sông bi tráng của thế kỉ 19 với máu của những cuộc khởi nghĩa.
+ Dòng sông đi vào cách mạng tháng tám và chiến dịch Mậu Thân với những chiến công rung chuyển và những mất mát không gì có thể bù đắp được.
=> Sông Hương trong lịch sử là dòng sông hùng tráng với những chiến công và có cả những đau thương, mất mát. 
d) Sông Hương dòng chảy của thơ ca:
+ "Dòng sông trắng lá cây xanh" trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà.
+ Từ thướt tha, mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên như "kiếm dựng trời xanh" trong khí phách của Cao Bá Quát. 
+ Là dòng sông mang nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là dòng sông có sức mạnh phục sinh trong thơ Tố Hữu.
3.1.3. Kết bài:
- Khẳng định lại hình tượng sông Đà và sông Hương:
+ Qua hình tượng hai dòng sông, thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam.
+ Tình yêu thiên nhiên, niềm tự hào về cảnh đẹp quê hương của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường.

3.2. Bài văn Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông: 

Khung cảnh thiên nhiên, con người Việt Nam luôn là nguồn cảm hứng sáng tác của biết bao tâm hồn nghệ sĩ. Có rất nhiều tác phẩm viết về hình tượng con sông quê hương xứ sở. Tiêu biểu phải kể đến bài tùy bút "Người lái đò sông Đà" và bài bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Cả hai tác phẩm đều làm nổi bật vẻ đẹp của những con sông trên đất nước ta.

Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo: ngông, tài hoa, uyên bác. Với tùy bút "Người lái đò sông Đà", tác giả đã làm nổi bật hình tượng sông Hương với vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Bằng những so sánh, liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân miêu tả "có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách". Còn "Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc". Những từ ngữ  "thở, kêu, sặc" đã nói lên mức độ ghê gớm của những cái hút nước. Bằng vốn sống phong phú và trí tưởng tượng sáng tạo, nhà văn đã tô đậm mức độ khủng khiếp của những cái hút nước qua hàng loạt các so sánh, liên tưởng độc đáo. Đọng lại cuối cùng trong lòng người đọc đó là một sông Đà được nhìn như một hung thần, gây cảm giác hãi hùng về cuộc đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn qua hàng thế kỉ. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn miêu tả âm thanh thác nước "Nghe như oán trách, rồi lại như van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Có lúc, nó "rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa". Tất cả những chi tiết đó đã gợi lên vẻ hung bạo, hiểm nguy của con sông Đà độc dữ. 

Con sông Đà dưới cái nhìn tài hoa của Nguyễn Tuân còn mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình. Tác giả đã miêu tả dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ kiều diễm: "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như người thiếu nữ Tây Bắc với vẻ đẹp trữ tình, trẻ trung và duyên dáng. Nguyễn Tuân còn phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của dòng sông. Nhà văn thấy màu nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân, nước sông Đà màu xanh ngọc bích. Để làm nổi bật cái màu xanh tươi sáng, lấp lánh của sông Đà, nhà văn đã phân biệt với màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô. Nguyễn Tuân khẳng định "Chưa bao giờ con sông lại có màu đen như cách thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra để đổ mực Tây vào". Bằng sự khẳng định này, tác giả không chỉ tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông mà còn trực tiếp bày tỏ tình cảm yêu mến và niềm tự hào về con sông xứ sở. Dòng chảy của sông Đà là dòng chảy của lịch sử, đất nước. Một vẻ đẹp tươi tắn, tràn trề nhựa sống, như bắt đầu một mùa nảy lộc sinh sôi, nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính của sông Đà "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Sông Đà hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân không phải là con sông vô tri, vô giác mà là một sinh thể có tâm hồn và tính cách riêng. Hai câu thơ ở lời đề từ đã khái quát đặc điểm của con sông "Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông" gợi vẻ đẹp êm đềm, thơ mộng và thể hiện tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên của con người Tây Bắc. Sông Đà hiện lên với hai vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. 

Đến với bài bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông", người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp của sông Hương ở nhiều phương diện. Ở góc độ khoa học, sông Hương là một dòng chảy địa lí vô cùng đặc biệt. Là dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất đó là thành phố Huế. Ở góc nhìn thi ca, với đôi mắt tài hoa, lãng mạn của một tâm hồn nghệ sĩ Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn sông Hương như một người con gái đẹp. Tác giả bắt đầu dấn thân vào hành trình khám phá vẻ đẹp của sông Hương ở nhiều góc độ.

Sông Hương nơi thượng nguồn như một "bản trường ca của rừng già". Nó vừa hùng tráng, dữ dội: "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc", vừa trữ tình, nên thơ, dịu dàng, say đắm giữa màu đỏ chói lọi của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương mang sắc đẹp trí tuệ và dịu dàng của "một người mẹ phù sa". Ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương hiện lên như một người con gái đẹp, một người tình dịu dàng trong cuộc tìm kiếm và đuổi bắt tình yêu. Khi vừa ra khỏi rừng, sông Hương chuyển dòng một cách liên tục, "vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong đột ngột". Trên hành trình kiếm tìm tình yêu, sông Hương phô diễn toàn bộ vẻ kiều diễm và quyến rũ của mình với những đường cong tuyệt mĩ. Trong lòng thành phố Huế, sông Hương giống như "một người đi xa đã tìm đúng đường về. Nó "kéo một nét thẳng thực yên tâm để nơi cuối đường nhìn thấy tín hiệu của Huế là cây cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời". Dường như sông Hương giao phó cả cuộc đời mình cho Huế mà không do dự, nghi ngờ. Trong lòng thành phố, Huế rang rộng vòng tay đón sông Hương và dòng sông nằm trọn trong lòng thành phố của mình. Để đáp lại ân tình của Huế, sông Hương đã hiến dâng cho Huế toàn bộ vẻ đẹp của nó. 

Trong góc nhìn lịch sử, Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận đây là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Không chỉ vậy, đó còn dòng sông viễn châu đã bảo vệ biên giới phía Nam của nước Đại Việt suốt những thế kỉ trung đại. Là dòng sông soi bóng kinh thành phú xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ thế kỉ XVIII. Đặc biệt đó là dòng sông đi vào cách mạng tháng tám và chiến dịch Mậu Thân với những chiến công rung chuyển và những mất mát không gì có thể bù đắp được. Sông Hương trong lịch sử là dòng sông hùng tráng với những chiến công. Đồng thời có cả những đau thương, mất mát. Không chỉ là dòng sông của lịch sử mà sông Hương còn là nguồn cảm hứng sáng tác của rất nhiều tâm hồn nghệ sĩ. Đó là "dòng sông trắng lá cây xanh" trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà. Từ thướt tha, mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên như "kiếm dựng trời xanh" trong khí phách của Cao Bá Quát. Hay đó là dòng sông mang nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.

Sông Hương hay sông Đà mỗi dòng sông mang vẻ đẹp riêng của dòng sông quê hương. Nhưng nhìn chung đều giúp người đọc thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam. Không chỉ vậy, qua đó còn làm nổi bật tình yêu thiên nhiên, niềm tự hào về cảnh đẹp quê hương của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường.

 

--------------HẾT----------------

Bài "Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà" trên đây sẽ là nền tảng kiến thức giúp em chinh phục kì thi trung học phổ thông quốc gia. Ngoài ra các em có thể tham khảo thêm các bài viết sau để hiểu rõ hơn về vẻ đẹp đặc trưng của sông Hương và sông Đà qua ngòi bút của hai tác giả: Phân tích sông đà hung bạo, bài Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà, Hình ảnh con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà, Phân tích vẻ đẹp của con sông Hương trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hình tượng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông, phân tích người lái đò sông đà

Những con sông đẹp của quê hương từ lâu đã trở thành cảm hứng sáng tác của nhiều nghệ sĩ. Để có thêm cảm nhận về đề tài đó, các em có thể tham khảo bàiCảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà.
Vẻ đẹp trữ tình của hình tượng dòng sông qua tác phẩm Người lái đò sông đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông
Nghị luận Vẻ đẹp con sông Việt Nam qua 2 tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông và Người lái đò sông Đà
Vẻ đẹp của con sông Hương ở thượng nguồn mà em cảm nhận được qua bài tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông
Vẻ đẹp của sông Hương qua Ai đã đặt tên cho dòng sông
Phân tích vẻ đẹp của con sông Hương trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông hay ngắn
Cảm nghĩ khi đọc bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông

ĐỌC NHIỀU