Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Mục Lục bài viết:
1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3

Đề bài: Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

3 bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
 

1. Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu 1:

Mỗi con người tạo nên một tính cách, mỗi nhà văn cũng có một phong cách riêng cho mình nhưng đặc biệt là có những tính cách nổi bật khiến người ta nhắc đến là nhớ ngay đến người đó. Và Nguyễn Công Trứ có một tính cách đặc biệt như thế, ông được biết đến với một cá tính đặc biệt, mạnh mẽ "ngất ngưởng". chính cá tính ấy làm cho người ta nhớ đến ông nhiều hơn. Đặc biệt cá tính của ông được thể hiện rất rõ trong bài thơ bài ca ngất ngưởng.

Bài ca ngất ngưởng giống như một lời tự thuật của Nguyễn Công Trứ về cuộc đời, tài năng, tính cách của ông. Đó là một tài năng lớn cũng là một tính cách lớn vượt qua khuôn khổ của thời trung đại cũng như nho giáo. Ông sinh ra trên mảnh đất Nghệ An, cùng thời với ông cũng có rất nhiều người tài giỏi tuy nhiên người ta lại nhớ đến ông. Phải chăng do tính cách khá đặc biệt của ông- một sự ngất ngưởng và lối sống chân thật ấy đã làm người ta nhớ đến ông nhiều hơn?.

Tác giả mở đầu bằng năm câu thơ để thuật lại cuộc đời làm quan của mình. Cuộc đời đó có vinh hoa hiển lạc nhưng cũng có lúc vất vả khốn cùng:

" Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên"

Chỉ với năm câu thơ tác giả đã giới thiệu cho chúng ta vè phần đời làm quan của ông. Trước tiên ta tìm hiểu khái niệm của từ " ngất ngưởng", ngất ngưởng là từ dồng nghĩa với ngất nghểu có thể hiểu là một người luôn ở tư thê cao không vững vàng, chông chênh, lắc lư như trực ngã. Nguyễn Công Trứ dùng tính từ này để nói về mình phải chăng là cả một ẩn ý?.

Trước hết là câu thơ đầu tiên thể hiện rõ quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ. Cùng với bản tuyên ngôn về chí làm trai " chí làm trai nam bắc đông tây- cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể" thì câu thơ đầu trong bài này cũng là một bản tuyên ngôn về quan niệm sống trong vũ trụ của ông

" Vũ trụ nội mạc phi phận sự"

Tác giả muốn gửi gắm một quan niệm sống của mình. Đó là trong vũ trụ này không có việc gì không phải là phận sự của ta. Dường như ta thấy Nguyễn Công Trứ đang đề cao tâm thế của một nhà nho nhân chính. Nó nói lên sự ý thức tầm quan trọng cá nhân của ông và sự nhiệt huyết trong cuộc đời của ông.

Sau đó ông tóm tắt về cuộc đời làm quan của mình:

"Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên"

Đối với ông mà nói làm quan như " vào lồng", câu thơ ấy có nghĩa là tác giả coi việc làm quan giống như bị nhốt trong lòng. Bởi vì với tính cách ngông nghênh cùng ý chí ngút trời " vẫy vùng trong trời đất" những đạo lí Tam cương ngũ thường trở thành khuôn phép gò bó tính cách của ông. Nguyễn Công Trứ tự xưng là ông, đó là một cách xưng hô đọc đáo. Dẫu biết làm quan là bó buộc mất tự do nhưng ông vẫn làm vì nhờ đó ông thể hiện được tài năng cũng như hoài bão của mình. Qua đó Nguyễn Công Trứ thể hiện mình như một giá trị hiển nhiên giữa đời mà không thể phủ nhận được.

Những bài Bình giảng Bài ca ngất ngưởng tuyển chọn

Sau đó là một loạt chức quan được kể ra như " thủ khoa", "tham tán", " tổng đốc đông" ," bình tây đại tướng" khi lại " Phủ doàn thừa thiên". Có thể nói cuộc đời làm quan của ông hiển đạt vô cùng tất thẩy đều là những quan to. Tuy nhiên ở ngoài đời thực thì ông có bị giáng chức xuống làm một anh lính quèn. Tuy nhiên ông từng có một câu nói vô cùng nổi tiếng đó là : "Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục". vì thế cho nên dù làm ở cấp nào đi chăng nữa đối với ông đều không quan trọng miễn sao ông được thỏa sức giúp nước nhà.

Cuộc đời làm quan khép lại và mở ra buổi nghỉ quan về hưu của Nguyễn Công Trứ. Đúng là một con người khác lạ đến buổi dứt áo quan về quê cũng thật khác bình thường:

"Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nôn dạng từ bì.
Gót tiên theo đừng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng"

Chia tay chốn quan trường nhà thơ về với quê hương thật đúng là " ngất ngưởng". Người ta về quan tiệc tùng linh đình về trong võng lọng kiệu đẹp, hay cùng lắm là con ngựa gầy nhưng Nguyễn Công trứ thì lại khác. Về quê chẳng tiệc chia tay, chẳng ngời đưa tiễn, chẳng vọng lọng kiệu ngựa mà chỉ một mình với con bò vàng đủng đỉnh. Bò mà đeo đạc ngựa thật sự chỉ có Nguyễn Công Trứ mói có mà thôi!.

Về quê nhà thơ tự do vui thú với cảnh quê hương và ca trù. Ông lên thăm chùa mà tự cười nhạo mình từ bi nhưng thật ra đằng sau lại có hai cô ả đào.

theo sau. Như thế là thất kinh nhưng bụt không tức giận mà phải bật cười vì tích cách của vị quan già ngông nghênh ấy.

Những câu thơ còn lại đều nói về cuộc đời và vui thú của ông khi về hưu:

"Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"

Cuộc đời của ông từ đây nhàn hại với những thú vui tao nhã. Đối với ông khen chê không là chuyện ông đáng để tâm tới ông cứ sống theo cách cảu mình. Cuộc đời này còn gì vui hơn hạnh phúc hơn khi được sống đúng là chính mình. Mấy ai được sống là chình mình còn Nguyễn Công Trứ thì làm được điều đó. từ đây ông đắm mình trongthus vui tuổi già đó là ca trù không vướng tục. Từ "khi" được điệp đi điệp lại nhiều lần thể hiện sự lặp lại của những thú vui ấy. Ca trù, rượu nóng ông say sưa trong hơi men và điệu cắc điệu tùng. Đúng là một cuộc sống đầy âm nhạc. Ông cứ sống như thế chẳng theo tiên theo phật cứ sống theo cách của chính ông mà thôi. Đây là đoạn thơ hay nhất trong bài nếu như hai câu trước trải dài để thể hiện sự thanh thản khi về hưu thì hai câu sau lại đầy ắp tiếng nhạc.

Nguyễn Công Trứ tự đặt mình ngang hàng với những các nhân vật nổi tiếng ngày xưa:

"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"

Trái Tuân thời Hán và ba ngưội thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những danh tướng có sự nghiệp hiển hách. Kêt thúc bài thơ ông không quên nhắc tới công lao mà mình đã đạt được trước khi về hưu. Đó là nghĩa vua tôi cũng đã tròn đạo. Ông ca lên điệp khúc ngất ngưởng của mình, ông sống và làm việc tận tụy hết mình nhưng đồng thời cũng có những thú vui khác người. Thú vui ấy chỉ có Nguyễn Công Trứ mói có , ông ngất ngưởng như vậy đấy.

Như vậy có thể thấy Nguyễn Công Trứ quả là một con người độc đáo ông tự ý thức được tài năng cũng như vị trí của mình. Ông sống mà không cần quan tâm đến người ta nói gì về mình. Và quả thật bài ca ngất ngưởng đã truyền tải hết sự ngất ngưởng của nhà thơ. Bài thơ không chỉ ngất ngưởng ở nội dung mà cả giọng điệu cũng góp phần làm nên bài thơ này.

--------------- HẾT BÀI 1---------------

Trên đây là phần Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng đầy đủ, chi tiết. Tiếp theo, các em chuẩn bị trả lời câu hỏi SGK, Bình luận Bài ca ngất ngưởng và cùng với phần Tìm hiểu tác phẩm Bài ca ngất ngưởng để học tốt môn Ngữ Văn hơn.
 

2. Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu 2:

Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là nhà thơ lớn cua dân tộc kinh bang tế thế, lưu danh sử sách. Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại quan, vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, sòng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường:

Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, cho thấy một cá tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện tuyệt đẹp qua bài phú Nôm Hàn nho phong vị phú và trên 60 bài thơ hát nói cực kì tài hoa. Bài ca ngưởng là một trong những bài thơ hát nói kiệt tác trong nền thơ ca dân tộc. Bài hát nói này có hai khổ đôi, tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hát nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ chất nhạc kết hợp rất hài hòa, hấp dẫn.

Nguyễn Công Trứ về trí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với triều Nguyễn. Bài thơ Bài ca ngất ngưởng được ông viết sau khi đã về trí sĩ tại quê nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật về cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào về tài năng và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời.

Ngất ngưởng nghĩa là không vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ này nếu hiểu ngất ngưởng là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Và ngất ngưởng đã được Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cồ niềm tự hào và sự say sưa hiếm thấy.

Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng làm trai. Rất trang trọng và hào hùng: Vũ trụ nội mạc phi phận sự - mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta. Một cách nói phủ định để khẳng định tâm thế của một nhà nho chân chính. Mà đâu chỉ có một lần? Lúc thì ông viết: Vũ trụ giai ngô phận sự (Những việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta - Nợ tang bồng); Vũ trụ chứa phận nội (Việc trong vũ trụ là chức phận của ta - Gánh trung hiếu). Có cái tâm thế ấy chính vì Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. Tài bộ là tài năng lớn, nhiều tài năng. Chữ lồng trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với cái tài bộ đội trời đạp đất của óng. Có người lại giải thích: lồng là trời đất, vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: Đã mang tiếng ở trong trời đất, hoặc Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn (trần hoàn: cõi đời, cõi trần). Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn, vì có lồng vũ trụ thì mới có ý chí đua tranh như ông nói.

Bài Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng đầy đủ, chi tiết

Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế của mình, tài bộ của mình, chí nam nhi của mình mang tầm vóc vũ trụ.

Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Học hành thi cử, ông dám thi thố với thiên hạ: Cái nợ cầm thư phải trả xong. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ thả khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Tiếng tăm lừng lẫy, Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ (Chí anh hùng). Đứng trên đỉnh cao danh vọng bởi có văn võ toàn tài, bởi có gồm thao lược, và chính lúc đó ông Hi Văn mới trở thành tay ngất ngưởng, một con người hơn đời và hơn thiên hạ. Câu thơ với ngắt nhịp (3-3- 1-3-3-2), ba lần điệp lại chữ khi đã tạo nên một giọng điệu hào hùng, thể hiện một cốt cách phi thường, một chí khí vô cùng mạnh mẽ:

Khi Thủ khoa/ khi Tham tán/ khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược/ đã nên tay/ ngất ngưởng.

Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân: Bình Tây cờ Đại tướng. Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm Phủ doãn Thừa Thiên. Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục. Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ về trí sĩ ở quê nhà, năm đó, ông vừa tròn 70 tuổi (1848):

Đô môn giải tô chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào ngựa ngựa xe xe nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất ngưởng. Như một sự thách đố với miệng thế gian. Cho đến nay dân gian vẫn cười và truyền tụng bài thơ để vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:

Xuống ngựa, lên xe, nọ tướng nhàn,
Lợm mùi giáng chức vơi thăng quan,
Điền viên dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.

Tám câu tiếp theo trong hai khổ đôi nói lên cách sông ngất ngưởng. Xưa kia là một vị đại thần, một danh tướng - tay kiếm cung - thế mà nay sống cuộc đời hiền lành, bình dị nên dạng tử bi. Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh, ông đã mang theo một đôi dì, những nàng hầu xinh đẹp với gót tiên đủng đỉnh..

Kia núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi,
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng...

Ông đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng là một tứ thơ độc đáo. Câu thơ tự trào nhiều hóm hỉnh. Bụt cười hay thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn tự cười mình? Đã thoát vòng danh lợi rồi, thì chuyện được, mất là lẽ đời, như tích Thất mã tái ông mà thôi, cũng chẳng bận tâm làm gì? Chuyện khen, chê của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông (xuân) phơi phới thổi qua. Có bản lĩnh, có tự tin về tài đức của mình mới có thái độ phủ định như thế, dám sống vượt lên trên mọi thế tục. Có biết Nguyễn Công Trứ là một nhà nho được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình, một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào các tính cốt cách khác đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng và tài tình hiếm thấy của ông. Không quan tâm đến chuyện được, mất. Bỏ ngoài tai mọi lời thị phi, khen chê, ông đã sống một cách hồn nhiên, vô cùng thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong Bài ca ngất ngưởng:

Khi ca/ khỉ tửu/ khi cắc/ khi tùng
Không phật/ không tiên/ không vướng tục.

Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng, trắc), lối nhân, lối diễn tả trùng điệp (khi ... không...) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một phong thái ung dung yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần. Có đọc to và hát lên, có lắng nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu, ta mới cảm được chất thơ, chất nhạc hòa quyện trong những vần thơ đẹp như thế! Ngất ngưởng và tài hoa, tài tử.

Khổ xếp của bài hát nói chỉ có ba câu. Câu cuối gọi là câu keo chỉ có sáu từ. Nên ghi đúng như văn bản Tuyển tập thơ ca trù - NXB Văn học 1987 mới đúng thi pháp:

Chẳng Trái, nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua, tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Đời ai ngất ngưởng như ông!

Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung, trọn vẹn nghĩa vua tôi - ông đã viết trong bài Nợ tang bồng.

Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác.

Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng ông đĩnh đạc, hào hùng: Đời ai ngất ngưởng như ông!. Cái bản ngã phi thường của nhà thơ đã được phô bày cực độ.

Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải vẹn đạo vua tôi mới trở thành tay ngất ngưởng, ông ngất ngưởng được. Và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, không vướng tục, cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng. Cái nhan đề, thi đề Bài ca ngất ngưởng của ông Hi Văn độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của nhà thơ rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất ngông. Một đàng ngất ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.

Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuôn, hấp dẫn.

Trong nền thi ca cổ điển Việt Nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát.. Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, là nhũng nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hòa nhập với Chí anh hùng, Nợ tang bồng, Chí nam nhi. Đó là phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. Bài ca ngất ngưởng đích thực là bài ca từ đáy lòng của ông Hi Văn cho ta nhiều thú vị.
 

3. Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu 3:

Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.

Theo quan điểm của Nguyễn Công Trứ đã làm một nam nhi thì phải có danh có tiếng và sống có ích cho đất nước. Ông luôn trăn trở vấn đề này trong suốt cuộc đời của ông. Vì thế ông viết nên bài : "Bài ca ngất ngưởng".

Thân bài: Bình giảng Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Bài ca ngất ngưởng ở đây là lối sống vô tư một người luôn ở tư thê cao không vững vàng, chông chênh, lắc lư như trực ngã không quên về công việc của bản thân và lối sống chân thật trong uộc sống. Bà ca thể hiện rõ cuộc đời, tài năng và tính cách của ông. Một con người một tính cách lớn vượt qua khuôn khổ của thời trung đại.

Mở đầu bài ca tác giả viết:

" Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên".

Đầu tiên tác giả đã cho ta thấy rõ quan niệm sống của ông về trí làm trai ở trong trời đất và ông gửi gắm quan niệm này cuả ông nên cả vũ trụ. Như vậy ta thấy được Nguyễn Công Trứ đang đề cao tâm thế của một nhà nho chân chính. Đồng thời ông cũng nêu lên tầm quan trọng của bản thân và sự nhiệt huyết của ông trong cuộc đời này.

Hướng dẫn Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Rồi sau đó ông nói về cuộc đời làm quan của mình. Tính ông vốn ngông nghênh cùng ý chí "vẫy vùng trong đất trời". Vậy mà giờ làm quan như "chim bị nhốt trong lồng". Dù biết làm quan sẽ làm mất tự do nhưng ông là người thông minh nên ông lấy cơ hội này để thể hiện tài năng cũng như hoài bão của mình. Ông còn liệt kê cho người đọc thấy được ông từng làm những gì "thủ khoa", " tham tán", " tổng đốc đông" , " bình tây đại tướng" khi lại " Phủ doàn thừa thiên". Vào một lần ông bị dáng chức xuống làm lính quèn nhưng ông lại có một câu cực kì nổi tiếng: : "Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục" vì thế dù ông ở cấp bặc nào ông cũng thấy bình thường vì chỉ cần được góp sức giúp nước nhà là ông thấy mãn nguyện.

Vì ông là một người khác thường nên trong lần nghỉ hưu không làm quan nữa của ông cũng khiến người đọc cảm thấy khác thường và bị cuốn hút theo:

Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nôn dạng từ bì.
Gót tiên theo đừng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng"

Lúc chia tay chốn quan trường về quê hương của mình ông thật là bình thản đúng chất "ngất ngưởng" mà ông đề trên đầu bài. Bình thường những người khác chia tay chốn quan trường người ta mở tiệc linh đình người đưa kẻ tiễn. Còn ông chẳng tiệc cũng chẳng cần người đưa một mình với con bò vàng. Đặc biệt con bò của ông khác lạ là được đeo đạc ngựa.

-------------- HẾT ---------------

Thông qua việc tham khảo bài Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng, các em có thể dễ dàng cảm nhận được chất ngông trong quan niệm, phong cách sống tự do, phóng khoáng của Nguyễn Công Trứ. Để dễ dàng so sánh thơ của Nguyễn Công Trứ với các nhà thơ khác, các em có thể tham khảo bài Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu, Phân tích bài thơ Thương Vợ của Tú Xương, Phân tích bài thơ Tự tình 2,... Thường xuyên tham khảo danh sách các bài văn hay lớp 11 do Taimienphi.vn biên soạn, tổng hợp, các em sẽ sở hữu nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để học, ôn tập và chuẩn bị tốt cho các bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn trên lớp của mình.

Qua bài Bình giảng bài thơ Bài ca ngất ngưởng, các em sẽ có thêm những hiểu biết thú vị về con người và phong cách độc đáo, đầy cá tính của Nguyễn Công Trứ được thể hiện qua thơ văn.
Phân tích cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ qua bài thơ Bài ca ngất ngưởng
Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Phân tích 6 câu thơ đầu Bài ca ngất ngưởng
Soạn bài Bài ca ngất ngưởng
Phân tích bức chân dung tự họa của Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng

ĐỌC NHIỀU