>> Những bài văn Phân tích bài thơ Tây Tiến, đạt điểm 10
Đề bài: Bài thơ Tây Tiến có phảng phất những nét buồn, những nét đau, nhưng đó là cái buồn đau bi tráng, chứ không phải là cái buồn đau bi lụy. Chứng minh nhận xét trên
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả tác phẩm.
- Giới thiệu về lời nhận định.
2. Thân bài:
a) Giải thích lời nhận định:
- "Tây Tiến" phảng phất những nét buồn, những nét đau": Chiến tranh luôn mang một gam màu trầm buồn, tang thương, gai góc. Vậy nên những tác phẩm viết về đề tài người lính và chiến tranh cũng không tránh khỏi cảm xúc chung đó. "Tây Tiến" cũng vậy, bài thơ cũng mang những nét buồn đau của một thời loạn lạc, lầm than.
- Làm rõ sự khác biệt giữa "bi tráng" và bi lụy":
+ Bi tráng: Buồn nhưng lại mang nét hào hùng, dùng sự đau thương để ngợi ca con người, ngợi ca sự việc.
+ Bi lụy: Buồn thương một cách yếu đuối.
=> "Tây Tiến" là một bài thơ mang âm hưởng trầm buồn nhưng kiêu hãnh, hào hùng chứ không hề bi lụy, sướt mướt.
b) Làm rõ nét buồn đau trong bài thơ:
- Trên chặng đường hành quân, có rất nhiều những điều cản trở bước chân người lính (nét buồn):
+ Sự mệt mỏi vì vừa phải chiến đấu, vừa phải hành quân nơi rừng núi hiểm trở.
+ Con đường hành quân đầy nguy hiểm.
+ Luôn bị thú dữ rình rập.
- Ngoài ra, người lính còn phải chịu nhiều nỗi đau:
+ Những căn bệnh do hoàn cảnh sống và chiến đấu khắc nghiệt, thiếu thốn gây ra "Đánh trận, tử vong ít. Sốt rét, tử vong nhiều" (Trần Lê Văn).
+ Sự hi sinh của đồng đội và ám ảnh về những nấm mồ nằm rải rác nơi biên cương.
c) Nét bi tráng trong bài thơ:
- Họ không ngần ngại đánh đổi tuổi xuân để giành lại độc lập, hạnh phúc, ấm do cho dân tộc
- Cái chết của người lính mang âm hưởng hào hùng, giống như sự hi sinh của các đại anh hùng, được núi sông đưa tiễn.
d) Đánh giá lại nhận định:
- Đây là nhận định đúng đắn
- Mở rộng: Không chỉ có nét buồn đau bi tráng, bài thơ còn được tạo nên bởi cảm hứng lãng mạn, cái "tôi" dạt dào cảm xúc của tác giả.
3. Kết bài:
- Khẳng định lại nhận định trên là đúng.
"Tây Tiến" là một bài thơ nổi tiếng viết về đề tài người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Có người cho rằng "Bài thơ Tây Tiến có phảng phất những nét buồn, những nét đau, nhưng đó là cái buồn đau bi tráng, chứ không phải là cái buồn đau bi lụy". Đây là một nhận định rất chính xác. Chính âm hưởng hào hùng, mạnh mẽ giúp cho tác phẩm mang nét bi tráng chứ không hề bi lụy.
Chiến tranh luôn mang đến gam màu trầm buồn, tang thương, gai góc. Vậy nên những tác phẩm chung viết về đề tài người lính và chiến tranh cũng không tránh khỏi cảm xúc đó. Đa số sẽ viết về những khó khăn, vất vả, sự hi sinh trên chiến trường. "Tây Tiến" cũng không ngoại lệ. Đó cũng chính là lí do "Tây Tiến phảng phất những nét buồn, những nét đau" của một thời loạn lạc, lầm than.
Những "nét buồn", "nét đau" trong bài thơ được thể hiện qua con đường hành quân của người lính và những khó khăn, thiếu thốn họ phải chịu đựng. Người lính Tây Tiến có nhiệm vụ vận động nhân dân tham gia cách mạng và đánh tiêu hao lực lượng địch ở khu vực biên giới phía Tây Bắc của Tổ quốc. Thế nên, ngoài việc tham gia chiến đấu, binh đoàn Tây Tiến còn phải hành quân đến các bản làng lẩn sâu trong rừng núi. Nhà thơ Quang Dũng đã miêu tả "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi". Cho dù người lính có mạnh mẽ đến đâu thì họ cũng là con người, cũng có giới hạn chịu đựng nhất định. Con đường đi đã dài này lại bị sương mù giăng kín lối khiến binh đoàn bắt đầu mỏi mệt. Ngoài ra, con đường hành quân của họ còn chất chứa đầy sự hiểm nguy. Đó là những con dốc cheo leo, cao ngút ngàn, địa thế hiểm trở "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây súng ngửi trời/Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống". Hay, người chiến sĩ cũng phải đối mặt với sự linh thiêng của núi rừng, những loài thú săn mồi nguy hiểm "Chiều chiều oai linh thác gầm thét/Đêm đêm Mường hịch cọp trêu người".
Ở giai đoạn đất nước vẫn còn chưa phát triển, người lính phải chịu nỗi thiếu thốn trăm bề. Nhất là khi ở rừng, căn bệnh sốt rét thường xuyên hành hạ những người chiến sĩ của ta. "Đánh trận, tử vong ít, sốt rét, tử vong nhiều" (Trần Lê Văn) là một sự thật trần trụi trong cuộc kháng chiến trường kì. Đoàn binh Tây Tiến cũng không nằm ngoài số đó. Cơn sốt rét rừng khiến cho tóc họ rụng hết, làn da trở nên xanh xám, nhợt nhạt vì thiếu máu. Không những vậy, họ còn phải chứng kiến cảnh những người đồng đội mình hi sinh vì mệt mỏi, kiệt sức trên đường hành quân: "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Những nấm mồ của đồng đội hay người chiến sĩ xa lạ nằm rải rác nơi biên cương cũng ám ảnh người lính, ám ảnh cả người đọc vì sự đau thương, tang tóc. Tuy tác giả đã sử dụng một loạt các từ ngữ Hán Việt "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" để trang trọng hóa sự hi sinh, làm dịu đi mất mát nhưng chúng ta vẫn không khỏi buồn đau trước sự ra đi của người lính. Vậy là, người lính Tây Tiến đã phải chịu đựng những mỏi mệt, đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần.
Ngòi bút của Quang Dũng đã nhìn thẳng vào hiện thực, khắc họa chân thực một thời kì đầu khó khăn, vất vả của cuộc kháng chiến. Từ đó, những người lính hiện lên với vẻ đẹp hào hùng, lạc quan. Tuy phải chịu nhiều đau thương mất mát nhưng họ vẫn giữ một tinh thần, một ý chí kiên cường, lạc quan. Đó cũng chính là sự bi tráng trong bài thơ. Khác biệt hoàn toàn với nét bi lụy, buồn đau một cách yếu đuối. Vậy nên, "Tây Tiến" là bài thơ mang âm hưởng trầm buồn nhưng kiêu hãnh, hào hùng chứ không hề ủy mị, sướt mướt.
Ta có thể bắt gặp niềm kiêu hãnh, hào hùng ấy ở trong suy nghĩ, lí tưởng của người lính. Dù có tận mắt chứng kiến sự hi sinh của người đồng đội hay những nấm mồ nơi biên cương, họ vẫn không hề nản lòng, nhụt chí. Trong tim mỗi người lính luôn giữ vững tâm niệm "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ đã xác định vào chiến trường là cho đi tuổi trẻ, cống hiến cả cuộc đời, tính mạng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thế nên, càng đau thương, mất mát, người lính Tây Tiến càng chiến đấu mạnh mẽ hơn để bảo vệ quê hương làng xóm, bảo vệ những người thân yêu.
Nét bi tráng trong bài thơ được thể hiện rõ nhất trong cái chết của người lính: "Áo bào thay chiếu anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Người đọc không hề thấy được bất cứ một sự ủy mị, sướt mướt nào trong hai câu thơ này mà chỉ có âm hưởng hào hùng vang vọng với núi sông. Nhà thơ đã ngầm so sánh cái chết của người lính giống như cái chết của những người anh hùng lớn, được sông núi đưa tiễn. Đây là lối viết mĩ lệ hóa, mang đậm tính sử thi, sự hi sinh của người lính như một sự hóa thân thành bức tượng đài bất tử, huyền thoại.
Vậy, nhận định "Bài thơ Tây Tiến có phảng phất những nét buồn, những nét đau, nhưng đó là cái buồn đau bi tráng, chứ không phải là cái buồn đau bi lụy" là chính xác. Không chỉ có tinh thần bi tráng, tác phẩm còn được tạo nên bởi cảm hứng lãng mạn, cái "tôi" tài hoa, dạt dào cảm xúc của tác giả.
Trải qua rất nhiều năm, "Tây Tiến" vẫn có sức sống riêng mãnh liệt. Âm hưởng hào hùng, bi tráng là một trong những yếu tố giúp bài thơ có được điều đó. Nó đã trở thành điều đặc trưng, khác biệt để độc giả luôn nhắc nhớ về tác phẩm như một bản anh hùng ca bằng thơ về những người lính trong binh đoàn Tây Tiến.
Quang Dũng là một nhà thơ đa tài với trái tim tình nghĩa. Có lẽ cũng vì như vậy mà khi phải chuyển đơn vị công tác mới và rời xa đồng đội của mình ông đã không kiềm được lòng mình. Bao tâm tư, tình cảm cùng những nỗi nhớ dạt dào của nhà thơ dành cho những người đồng đội cũ đã thôi thúc trái tim ông để rồi trong giây phút xúc động ấy ông đã đặt bút viết lên bài thơ "Tây Tiến". Trong tác phẩm có phảng phất những nét buồn, những nét đau, nhưng đó là cái buồn đau bi tráng, chứ không phải là cái buồn đau bi lụy.
Con người dù có mạnh mẽ đến đâu cũng có lúc trong lòng thấy trống trải, cô đơn. Làm gì có ai trên đời không một phút thấy buồn đau, nhung nhớ khi phải xa rời những thứ thân thuộc đã gắn bó từng ngày. Thật vậy, còn gì đau buồn hơn khi phải xa rời những người đồng chí từng gắn bó, từng ăn ngủ và chiến đấu với mình. Họ đã cười cùng nhau, khóc cùng nhau và dường như mối quan hệ ấy thân thiết gắn bó như những người anh em trong nhà. Vậy mà giờ đây nói xa là xa, thoắt một cái mối quan hệ ấy bỗng bị ngăn cách bởi khoảng cách địa lý. Nhưng dù có xa xôi đến mấy thì trái tim họ vẫn luôn hướng về nhau, tình cảm là thứ có thể bức phá mọi giới hạn của vũ trụ, không gì có thể cản ngăn được nỗi niềm những người đồng đội dành cho nhau. Bài thơ "Tây Tiến" như là dòng cảm xúc mãnh liệt đang chảy cuồn cuộn trong trái tim nồng ấm của tác giả. Và đó là sự hồi tưởng lại những ngày tháng gắn bó bên nhau, những khó khăn, gian khổ nhưng rất anh dũng của người lính. Những dòng thơ như những dòng cảm xúc cuồn cuộn chảy đưa Quang Dũng trở lại những giây phút gắn bó cùng đồng đội.
Nỗi nhớ của người nghệ sĩ ấy được mở đầu bằng nỗi nhớ về rừng núi, nhớ về những cảnh vật gắn bó cùng ông suốt một quãng thời gian dài:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"
Phải gắn bó, phải dành tình cảm nhiều đến mức nào thì tác giả mới có thể tả lại cảnh vật chi tiết đến thế. Nỗi nhớ ấy cứ phảng phất bao trùm lấy cảnh vật. Và đó cũng là những ngày tháng khó khăn và đầy gian khổ khi "Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi". Đó là sự mỏi mệt, khó khăn mà người lính hàng ngày vẫn gặp phải, nhưng bằng cách nào đó họ vẫn kiên cường bất khuất vượt qua. Không gì có thể cản phá được đôi bàn chân hành quân của người lính.
Cuộc sống đâu có chuyện gì là dễ dàng. Thật vậy, thiên nhiên vẫn không ngừng cản trở, gây khó khăn cho những người lính trẻ:
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống"
Đó là những con dốc ngoằn ngoèo hiểm trở, là những đoạn hành trình mỏi mệt đi mãi không điểm dừng. Thiên nhiên bao la hùng vĩ như thế nhưng luôn ẩn chứa những hiểm nguy không ngừng và để chinh phục được con thú hung dữ ấy người lính phải không ngừng nỗ lực để bứt phá được giới hạn bản thân và thuần hóa được con thú dưc ấy.
Nhưng khó khăn đâu chỉ có là thiên nhiên hung dữ. Tuy họ là những anh hùng nhưng cũng là người bình thường và cũng có lúc ốm đau, bị bệnh tật hành hạ. Hành quân nơi rừng thiêng nước độc khiến họ đã mệt mỏi nay lại còn vật vã với bệnh tật. "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc", "Quân xanh màu lá" tưởng chừng như là một hình ảnh thật đẹp thế nhưng ẩn sâu trong đó lại là những cơn đau ốm, quằn quại của người lính chống lại những cơn sốt rét điếng người. Thế nhưng dù đau ốm, bệnh tật nhưng hình tượng của người lính vẫn "dữ oai hùm" , lúc nào cũng đẹp, oanh liệt mà không hề khốn đốn bởi bệnh tật.
Sứ mệnh bảo vệ nơi biên cương luôn gắn liền với những khó khăn, mất mát. Có những người lính trẻ đã ra đi mãi mãi trong sự tiếc thương của đồng đội. Sự thiếu thốn đến tột cùng khi "áo bào thay chiếu, anh về đất". Sự ra đi của người lính ấy chẳng theo một nghi lễ nào cả, chỉ có manh áo cùng đồng đội tiễn đưa anh lên đường. Lễ tang của anh chẳng có lấy một manh chiếu, thiếu thốn là thế nhưng Quang Dũng lại coi manh áo khoác cho người đồng chí của mình là áo bào, thứ mà chỉ dành cho vị vua cao quý. Sự ra đi của anh không theo một nghi thức thông thường nào cả mà nó mang tầm vóc đất trời. Sự mất mát ấy cũng khiến núi rừng thương xót để rồi "Sông Mã gồng lên khúc độc hành".
Chẳng ai có thể nói trước được tương lai của người lính. Có những người bỏ mạng trên đường hành quân nhưng dù đã ra đi thì tâm hồn họ vẫn hướng theo những đồng đội của mình. Dẫu biết "Đường lên thăm thẳm một chia phôi" thế nhưng bước chân người lính vẫn cứ hành quân ngày qua ngày, dù mỏi mệt nhưng họ vẫn lạc quan tiến về phía trước.
Cuộc đời người lính luôn tiềm ẩn những khó khăn, gian khổ bởi hiểm nguy rình rập, bị bệnh tật, kẻ thù rình rập. Thế nhưng tâm hồn người lính vẫn luôn lạc quan, yêu đời. Họ không hề khô khan, chai sạn mà cũng biết thưởng thức cảnh đẹp đất trời, sự lãng mạn hiếm có nơi rừng núi hiểm trở "Mường Lát hoa về trong đêm hơi". Và khi đứng trên cao của ngọn núi hiểm trở nhìn xuống anh lại vô tình bắt gặp cảnh tượng lãng mạn hiếm có "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Tất cả như khiến anh càng thêm yêu quê hương, đất nước và tự nhủ chắc chắn phải bảo vệ chốn thân yêu này.
Trong cuộc hành quân ấy, người lính cũng được trải nghiệm cuộc sống của những người dân miền núi, họ cũng hòa mình vào để tận hưởng cái bầu không khí ấm cúng rộn ràng ấy:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Và hơn thế, trái tim người lính cũng biết yêu thương, rung động. Ở nơi xa xôi hiểm nguy ấy nhưng không lúc nào tình yêu của anh dành cho người yêu của mình vơi đi. Câu thơ "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" thật là một cách sử dụng ngôn từ đắt. Tình yêu của người lính có thể vượt qua cả bom đạn, quân thù, bất kể ngày mai có ra sao nhưng trong tim anh luôn nồng nàn tình yêu dành cho người phụ nữ của mình. Anh dành tuổi xuân nơi đầu súng để đổi lấy yên bình cho quê hương nơi em ở, đó là một tình yêu thật vĩ đại và cao cả, thật lớn lao và xúc động.
Không phải cảnh vật trên đường hành quân lúc nào cũng tàn bạo, hung dữ mà nó cũng nên thơ, lãng mạn:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Cảnh tượng người và thuyền ta đã bắt gặp nhiều lần nhưng lần này lại thấy đẹp đến lạ. Phải chăng đây là một bản tình ca còn đang dang dở đợi người trở về viết tiếp? Đó là nét phảng phất buồn của một tình yêu đẹp, một tâm hồn trong sáng chan chứa tình cảm đang ngước theo người yêu hay phải chăng đó cũng là đôi mắt đượm buồn của người thiếu nữ tiễn người thương lên đường đánh trận?
Thật vậy, cuộc đời người lính mặc dù có nhiều khổ đau, mất mát thế nhưng tâm hồn họ luôn tràn trề nghị lực và tình yêu cao cả. Họ bất khuất, anh dũng không chịu khuất phục, không có khó khăn nào có thể khiến họ dừng lại ngày kể cả cái chết. Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn mà họ phải chịu thật mỏi mệt, đau đớn thế nhưng ở họ lại toát lên vẻ oai hùng, anh dũng của một tinh thần tuổi trẻ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
Chiến tranh đã khiến con người phải trả một cái giá quá đắt. Nhiều người đã dành cả thanh xuân của mình để đổi lại hòa bình, cuộc sống yên vui cho con trẻ. Đứng nơi đầu sóng ngọn gió, nơi tận cùng của tổ quốc đầy hiểm nguy như thế nhưng vẫn có những con người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Họ sống hết mình, lạc quan và hăng say chiến đấu. Đó là những người lính trẻ, những vị anh hùng anh dũng hy sinh quên mình vì dân tộc. Tác phẩm "Tây Tiến" của Quang Dũng là một bức tượng đài bất hủ về hình tượng bi tráng của người chiến sĩ hết lòng vì dân vì nước, giai thoại về người lính sẽ còn được ghi nhớ đến muôn vạn đời sau về những con người nhỏ bé nhưng sức mạnh mang tầm vóc vũ trụ.
------------------
Ngoài "cái buồn đau bi tráng", bài thơ còn mang cảm hứng lãng mạn rất đặc trưng của văn học Việt Nam thời kì đó. Tây tiến là bài thơ nổi bật trong chương trình ngữ văn lớp 12, bên cạnh bài làm văn Bài thơ Tây Tiến có phảng phất những nét buồn, những nét đau, nhưng đó là cái buồn đau bi tráng, chứ không phải là cái buồn đau bi lụy. Chứng minh nhận xét trên, học sinh và giáo viên tham khảo các bài làm văn mẫu như Nét đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Tây Tiến, Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến, Cảm hứng chủ đạo trong bài thơ Tây Tiến, Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, Phân tích vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến hay cả các tài liệu hay về Bình giảng bài thơ Tây Tiến, Soạn bài Tây Tiến.