A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Nguyễn Tuân sinh ngày 10 – 7 – 1910, mất ngày 28 – 7 – 1987, là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng tiếng Việt. Tên ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội.
- Ông quê ở xã Nhân Mục, thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
- Năm 1929, khi đang học đến cuối bậc trung học cơ sở thì Nguyễn Tuân bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khoá phản đối các giáo viên Pháp nói xấu người Việt. Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì “xê dịch” qua biên giới không có giấy phép. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
- Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…
- Ông còn là một diễn viên kịch nói và là diễn viên điện ảnh. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
- Nguyễn Tuân là nhà văn thực sự quý trọng nghề viết văn. Đối với ông, nghệ thuật là một sự “khổ hạnh” đúng nghĩa.
- Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987, để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc đáo và đầy tài hoa. Năm 1996 ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
2. Sự nghiệp văn học.
- Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm tuỳ bút, bút kí có phong cách độc đáo như Vang bóng một thời (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941)...
– Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
- Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút kí Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972), một số tập kí chống Mĩ (1965 – 1975) và nhiều bài tuỳ bút về cảnh sắc và hương vị đất nước.
3. Phong cách.
- Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”.
- Mỗi trang viết của ông đều muốn thể hiện sự tài hoa uyên bác. Mọi sự vật, hiện tượng được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
- Ông thường đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là Vang bóng một thời. Văn Nguyễn Tuân vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại.
- Nguyễn Tuân học theo “chủ nghĩa xê dịch”. Ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thẳm, thác ghềnh dữ dội...
- Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
- Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hoá nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở cả quần chúng nhân dân. Chất giọng khinh bạc vẫn được duy trì và chủ yếu để dành cho kẻ thù của dân tộc hay những khía cạnh tiêu cực của xã hội.
II. Tác phẩm Người lái đò sông Đà
1. Xuất xứ
- Là một trong số 15 bài được in trong tập tuỳ bút Sông Đà, xuất bản năm 1960. Đây là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
- Tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân. Nó thể hiện “độ chín mới về tư tưởng và nghệ thuật” (Nguyễn Đăng Mạnh).
2. Bố cục
Đoạn 1: “... Ông lái đò Lai Châu... với nhà đò”: Giới thiệu ông lái đò sông Đà.
Đoạn 2: “Trên sông Đà... dòng nước sông Đà”; Hình ảnh con sông Đà và những cuộc vượt thác của ông lái đò.
Đoạn 3: “Tôi có bay tạt ngang qua... ở Tây Bắc”: Con sông Đà hiền hoà và cuộc sống tươi vui ở ven bờ.
3. Những giá trị nội dung, nghệ thuật
a) Hình ảnh sông Đà: Con sóng Tây Bắc hung bạo
- Dòng sông rất dữ dội (bờ đá dựng vách thành, chẹt lòng sông Đà khiến nó hẹp lại, dòng sông như một cái hang, tối, sâu và lạnh).
- Con sông luôn hung hăng, ưa gây sự: + Nó luôn chờ chực và giáng tại họa bất kì lúc nào vào người lái đò sông Đà: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè ”
+ Dữ dội không chỉ ở trong lòng mà cả trên mặt sông: Mặt nước hò la vang dậy “ùa vào” như thế “quân liều mạng”, “đánh những đòn hiểm độc nhất”,...
- Tính cách hung bạo của sông Đà được biểu hiện ở những dòng thác, những luồng cửa tử giăng vây, chặn đánh, tấn công tới tấp ồ ạt vào người lái đò.
- Quả là chẳng khác gì một loài thuỷ quái khổng lồ vừa nham hiểm và hung dữ “thành ra diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một” của con người.
Con sông Tây Bắc trữ tình: – Toàn cảnh con sống được ví như “một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải”, “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”...
- Sông Đà có những “luồng êm” “đằm dịu” muôn đời “sông nước thanh bình”.
- Sắc nước sông Đà mang vẻ đẹp đặc trưng: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ...”.
- Sông Đà mang vẻ đẹp nguyên sơ: + Cảnh ven sông ở thượng nguồn lặng tờ, bây hươu an nhiên ngốn cỏ gianh đẫm sương, cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sống bụng trắng như bạc rơi thoi.
+ Có đoạn, có khúc sông “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử – Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
- Con sông ấy gợi nhớ cố nhân, gợi cảm xúc đặc biệt cho mỗi người khi tiếp xúc với tính cách trữ tình của nó: nó có chất Đường thi cổ điển, cái lặng lờ của nó gợi nhớ một quá khứ xa xăm từ thời Lí, Trần, Lê, nó “lững lờ nhớ thương” và “đang lắng tai nghe” với dáng vẻ rất dịu dàng, thầm kín.
b) Nhân vật người lái đò Sông Đà.
- Người lái đò có một ngoại hình và những tố chất đặc biệt: + Tuổi đã 70 mà trông rất tráng kiện: thân hình cao to, “gọn quánh như chất sừng, chất mun”.
+ Tiếng nói át cả sóng nước. Ngực, vai có những vết chai như những củ nâu mà Nguyễn Tuân gọi đó là thứ “huân chương lao động siêu hạng”.
- Hơn 10 năm cùng con thuyền xuôi ngược sông Đà, ông thông thuộc địa hình dòng sông như thuộc bàn tay mình.
- Là một người tài trí: sẵn sàng đối mặt với thần sông, thần đá, chinh phục mọi cửa tử cửa sinh.
- Dũng cảm đưa con thuyền “vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép”, như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”... làm cho tên tướng đá “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng...”. Có lúc bị luồng nước đánh đòn ác hiểm nhưng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo điều khiển con thuyền thoát hiểm.
- Rất “tài tử”: Sau một ngày dài đọ trí thi tài với con thuỷ quái, ông ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, nói về cá anh vũ, những hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng.
- Lúc ngừng chèo, ông chẳng hề bận tâm về chuyện vượt thác, chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn.
- Nhân vật người lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Xây dựng nhân vật này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu một quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày.
- Người lái đò Sông Đà thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác, độc đáo trong thể tuỳ bút của Nguyễn Tuân. Nhiều biện pháp đã được sử dụng tài tình như: nhân hoá, so sánh, những ẩn dụ, từ tượng thanh, từ tượng hình,... Tiếng nói đời thường sông nước, ngôn từ nhà bình luận thể thao, điện ảnh... được ông vận dụng để miêu tả thác ghềnh, gây ấn tượng về sự dữ dội, hiểm trở, hùng vĩ của sông Đà.
B. TỰ LUẬN
1. Hình tượng người lái đò trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như thế nào?
Gợi ý làm bài
- Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ con sông Đà thơ mộng, với sức sống tiềm tàng, vừa dữ dội, mãnh liệt, vừa trữ tình, lãng mạn. Trên dòng sông hùng vĩ ấy, người lái đò hiện lên sừng sững, hiên ngang, đẹp như một bức tranh huyền thoại. Đấy là con người tồn tại trong tư thế chiến đấu: “Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Hình tượng người lái đò đã mang đậm phong cách Nguyễn Tuân – người say mê và suốt đời đi tìm cái đẹp.
- Lai lịch của người lái đò: Qua chuyện trò với tác giả, ta biết người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm.
- Ngoại hình: Dấu ấn cuộc đời sống nước in đậm ở ngoại hình ông lão:
+ Tay ông lêu nghêu như cái sào.
+ Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng.
+ Giọng nói ko ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông.
+ Thị lực vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
- Ngoại hình người lái đồ hiện lên sắc nét nhất là trong cuộc chiến đấu với thạch trận trên sông: “Nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đồ ghì cương lái, bám chắc lấy luông nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về cửa đá ấy”.
- Nguyễn Tuân qua những dòng miêu tả ngoại diện và lại lịch người lái đò là không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi tài năng, ý chí, lòng dũng cảm, cũng như sự gắn bó, yêu quý nghề của ông lão. Trong câu văn của mình, Nguyễn Tuân luôn gửi gắm nhiều điều muốn nói. Tất cả nằm sâu dưới tầng chìm của tảng băng trôi.
- Tính cách người lái đò: Nổi bật nhất là sự từng trải và điêu luyện về tay nghề.
+ Người lái đò là một linh hồn muôn thuở của Sông Đà hay nói cách khác Sông Đà đã trở thành máu thịt của ông. Ông làm nghề đò đã mười năm liền, từng ngược hơn một trăm lần, tự tay ông giữ lái độ sáu chục lần.
+ Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện ở chỗ nắm thuộc lòng mọi ghềnh thác, mọi chỗ ngoặt, chỗ nông sâu của dòng sông. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân rất chi li, tỉ mỉ mọi ngóc ngách của dòng Sông Đà bảy mươi ba con thác. Phải chi li, như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kì lạ ở ông lão lái đò. Đồng thời, đây cũng là cách Nguyễn Tuân bày tỏ nỗi thán phục của chính mình một con người tài hoa trước một con người tài hoa, giỏi tay nghề, như được sinh ra từ những con sóng dữ nơi thác nước Sông Đà.
- Lòng dũng cảm: Để chinh phục được Sông Đà, không chỉ dựa vào sự từng trải, tay nghề vững vàng mà người lái đò còn phải có lòng dũng cảm, mưu trí và ý chí quyết tâm cao. Nhà văn đặt nhân vật vào ngay hoàn cảnh thử thách khốc liệt, nơi đó, tất cả những phẩm chất tiềm tàng được bộc lộ, nếu không thì nhân vật sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Hành trình của ông lão lái đò trên Sông Đà là được ví như là hành trình đi đến với cuộc chiến khốc liệt, một cuộc thuỷ chiến không cân sức giữa con người trước thiên nhiên hùng vĩ đây nguy hiểm chết người. Cuộc chiến đó diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương vô cùng dũng mãnh: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bên nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”.
- Thạch trận Sông Đà đã bày sẵn. Mỗi hòn đá trên sông đều có một nhiệm vụ là huỷ diệt bất kì ai đi vào lãnh địa mình. Thạch trận gồm có ba hàng, bày bố chặt chẽ hợp lí và sẵn sàng hỗ trợ nhau... Nếu người lái đó không vững tay lái thì ngay lập tức bị chúng vùi xuống dòng sâu.
- Được nhân cách hoá thành một tay đô vật lão luyện, Sông Đà bước vào sới vật với người lái đò. Chính xác hơn là người lái chủ động khiêu chiến. Khi Sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc là bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng đặng lật ngửa đối thủ ra “giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”, tay lái của ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí lão lái con thuyền vượt qua ghềnh thác.
- Khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén cơn đau, “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”.
- Đã nắm chắc “binh pháp của thần sông thần đá”, đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, lối thoát duy nhất là xông thẳng vào chính cửa giữa: “Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lại được lượn được. Thế là hết thác”. Thạch trận hiểm nguy không ngăn nỗi người lái đò.
- Nghệ sĩ tài hoa: Hình ảnh ông lão lái đò được khắc hoạ như một nghệ sĩ tài hoa. Quan niệm của Nguyễn Tuân về tài hoa có nét đặc biệt. Ông không giới hạn vào giới nghệ sĩ mà mở rộng ra nhiều đối tượng. Bất kì ai thực hiện tốt công việc của mình một cách tinh vi và siêu phàm, bằng một tay nghề điêu luyện và bằng nỗ lực phi thường của cả tâm hồn thì người đó đều xứng danh là tài hoa nghệ sĩ. .
- Kĩ thuật vượt thác của ông lão lái đò được nâng lên thành nghệ thuật. Ông lão trở thành người nghệ sĩ tài hoa trên con thuyền vượt thác. Với người ngoài, đấy quả là một chiến công phi thường. Nhưng với ông lão, công việc vượt thác là nhiệm vụ là nghề mưu sinh. Vả lại trong đời ông đâu chỉ vượt thác một lần!
- Nét nghệ sĩ hào hoa ở người lái đò còn được thể hiện ở hành động ung dung bên bếp lửa sau khi trận đánh với Sông Đà kết thúc.
- Phong thái của ông lão ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: “Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”.
- Hành động của người lái đò tựa những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để khai sinh nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về thành quả lao động của mình. Nguyễn Tuân đưa ra lời nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo”.
- Phẩm chất anh hùng, tay nghề lão luyện của người lái đò là dễ thấy, những phẩm chất nghệ sĩ tài hoa ở người lái đò thì chỉ riêng Nguyễn Tuân thấy được mà thôi. Đây chính là tấm lòng trân trọng mà Nguyễn Tuân dành cho những người lao động chân chính. Phẩm chất anh hùng của con người không chỉ diễn ra trên mặt trận máu đổ đầu rơi mà còn thể hiện trong lao động. Nhờ lao động, nhờ niềm đam mê cháy bỏng của một tâm hồn yêu nghề, người lái đò đã viết nên thiên huyền thoại cho chính mình: Nghệ sĩ tài hoa trên thác nước.
– Nguyễn Tuân trong tác phẩm của mình thường xây dựng nhân vật chính diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân khai thác cái tài hoa ở lớp nhà nho trong quá khứ. Sau cách mạng, cùng với những chuyển biến phi thường của dân tộc, đất nước, tư tưởng của Nguyễn Tuân cũng có nhiều thay đổi.
- Trong Người lái đò Sông Đà và nhiều tác phẩm khác được sáng tác khi nước nhà giành được độc lập, Nguyễn Tuân đã phát hiện và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống lao động hằng ngày của người dân.
- Ông lão lái đò không tên tuổi, hành nghề nơi xa xôi, hẻo lánh trên những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên hùng ca, ngợi ca con người bằng những tình cảm chân thành nhất, một con người lao động. Và cái đẹp toả sáng trong lao động sẽ là cái đẹp thiết thực, gắn với cái thiện và cái hữu ích. Cảm hứng ngợi ca đã góp phần đắc lực trong việc khắc tạo nên một hình tượng kì vĩ, đầy sức sống.
2. Hình tượng Sông Đà trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân được khắc họa như thế nào?
Gợi ý làm bài
- Sông Đà là nguồn mạch vô tận trong sáng tạo nghệ thuật. Đấy là con sông có “cá tính”: “Chúng thuỷ giai đông tẩu / Đà giang độc bắc lưu” (Mọi con sông đều chảy theo hướng đông, chỉ có sông Đà theo hướng Bắc, Nguyễn Quang Bích).
- Vì vậy, Sông Đà trở thành dòng sông ánh sáng, của nhiều nguồn mạch sáng tạo cho thơ, nhạc, hoạ... Đến Nguyễn Tuân, bằng tài năng và phong cách độc đáo của mình, dòng sông ấy càng trở nên hấp dẫn, gợi cảm, làm đắm say hàng triệu con tim người đọc.
- Bằng nghệ thuật nhân cách hoá và vận dụng nhiều liên tưởng hấp dẫn, Sông Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân trở nên một “nhân vật” có diện mạo, có tâm lí với hai nết tính cách tiêu biểu là vừa hung dữ, vừa hết sức trữ tình: “Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”.
- Con sông hung bạo: + Khi hung bạo, Sông Đà là “kẻ thù số một”, với sức mạnh sẵn có của mình, nó sẵn sàng cướp đi mạng sống con người. Tính chất hung bạo ấy ra đời trên cơ sở của sự hùng vĩ của dòng sông. Để khắc hoạ tính cách của sông Đà, tác giả đã dựng lại khúc sông nguy hiểm: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành”, chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu.
+ Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.
+ Một đoạn sông khác ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La, Sông Đà là cái hút nước “xoáy tít đáy”. “Có những thuyền đã bị nó hút tụt xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới dòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
+ Dữ dội nhất trên Sông Đà là ở những thác đá. Ban đầu là âm thanh, một sự cảm nhận từ xa. Đấy là thứ tiếng gào thét bằng trăm ngàn giọng khác nhau. Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe doạ bởi tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo”. Các chất giọng này không chỉ diễn tả sự đa dạng trong nỗi hung bạo của nó mà còn nhấn mạnh Sông Đà là một tạo vật có hồn.
- Về hung bạo, mưu mô, xảo quyệt, mánh khoé... của Sông Đà được đặc tả qua cuộc chiến với người lái đò. Thác đá được xếp thành từng tuyến của cái thạch trận trùng trùng hiểm trở, nhằm “ăn chết”, để “nhổm cả dậy để vồ” con thuyền đơn độc. Trận chiến có ba tuyến:
+ Tuyến một, thác đá mở ra năm của trận, bốn cửa tử, một cửa sinh cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn.
+ Tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu ngạn.
+ Tuyến ba, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng giữa dòng, vào luồng sinh để vượt thoát qua.
- Khắc hoạ vẻ hung dữ của Sông Đà, Nguyễn Tuân dùng những câu văn dài ngắn không đều nhau tạo nên sự gân guốc, góc cạnh, giàu tính tạo hình, kết hợp với những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập: “Mặt trước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”.
- Thường xuyên sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị. Ông mô tả những hòn đá “trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.
– Không chỉ là một vị tướng giỏi bày binh bố trận, đặc biệt tác giả còn ví Sông Đà giống như một tay đấu vật giỏi giang,... Những hình ảnh so sánh này gợi lại vốn văn hoá truyền thống quý báu của dân tộc. Qua đó, Nguyễn Tuân bộc lộ tình cảm niềm tự hào lớn lao đối với tổ quốc tươi đẹp. Người đọc có thể nghe được trong đoạn văn ấy âm hưởng của những khúc ca hùng tráng ca ngợi sức mạnh tự nhiên thật hoang dại, cuồng nộ nhưng cũng hết sức tự do, hào phóng, kiêu hùng.
– Con sông trữ tình: Bằng nhãn quan của một cây bút lãng mạn bậc thầy, bao giờ Nguyễn Tuân cũng bố trí hình tượng của mình trong thế đối lập. Từ sự đối lập này, ông dễ dàng tạo nên được nét cá biệt cho diện mạo nhân vật. Vì lẽ đó, không chỉ Sông Đà đối lập với người lái đò mà ngay trong chính bản chất của mình Sông Đà chất chứa nhiều sự đối lập thú vị.
- Như chính tác giả quan niệm, bên cạnh tính cách hung bạo, Sông Đà lại rất trữ tình. Vẻ đẹp hùng tráng của nó gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người.
- Ở khía cạnh trữ tình, “con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo nương xuân”. Đấy là con sông yêu kiều, hiền hoà.
- Theo thời tiết từng mùa, Sông Đà hiện lên với những dáng vẻ khác nhau, đặc biệt là màu sắc. Không chỉ đẹp ở hình dáng, Sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, phải dày công quan sát mới thấy hết được vẻ đẹp có một không hai ấy: “Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”...
- Nét trữ tình bao hàm cả không khí hoang dã, tĩnh lặng. Tác giả đã viết những câu thật xuất thần: “Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
- Không gian sống thấm đẫm chất thơ. Điểm tô cho bầu không khí lãng đãng thơ ấy, Nguyễn Tuân tả đàn hươu “cúi đầu ngón búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, ngẩng đầu ngơ ngác mơ một tiếng còi xương, và cái “nắng tháng ba Đường thi” Giữa mùa hoa khói Dương Châu xuôi dòng (Yên ba tam nguyệt há Dương Châu), gợi tâm sự của bằng hữu tâm giao chớm gặp đã vội chia lìa. .
- “Sông Đà như một cố nhân”, trở thành tri âm tri kỉ muôn đời với nhà văn. Từ góc độ này, Sông Đà mang diện mạo của một thi sĩ đa tài, đa tình. Không còn chút tâm địa độc ác nào, mà chỉ thấy mối giao hoà thân ái giữa sông với người trong cảm thức của những cố nhân.
- Câu văn khắc hoạ dáng vóc trữ tình của Sông Đà trải dài, nhịp nhàng, cân đối, mang âm hưởng nhẹ nhàng, êm ái... Lòng người mênh mang theo dòng sông thơ mộng. Nhưng đâu đó trên những chặng dài lao mình ra biển, Sông Đà vẫn quặn đau với nhiều thác ghềnh hiểm trở.
Câu 1. Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.
Trên đây là phần Soạn bài Người lái đò sông Đà bài tiếp theo, các em chuẩn bị trả lời câu hỏi SGK, Soạn bài Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận và cùng với phần để học tốt môn Ngữ Văn lớp 12 hơn.
Sau khi đã tìm hiểu xong nội dung soạn bài Người lái đò sông đà trên, các em có thể vẽ Sơ đồ tư duy Người lái đò sông đà để có thể đi vào Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà, Cảm nhận nhân vật, vẻ đẹp con sông Đà dễ dàng... nhằm củng cố kiến thức của mình về những nội dung văn học này.