1. Đọc bài tập 1 (tác giả Hồ Chí Minh, Ngữ văn 11, tập 1, trang 120) và trả lời các câu hỏi:
a) Đoạn trích sử dụng những thao tác lập
luận nào?
- Thao tác phân tích: Tự kiêu mà tự đại là khờ dại. Vì mình hay, còn nhiều người hay hơn mình.
- Thao tác so sánh: Người mà tự kiêu tự mãn thì cũng như cái chén, cái đĩa cạn.
b) Các thao tác lập luận ấy nhằm hướng đến mục đích gì?
- Nhằm thuyết phục người đọc, người nghe rằng tự kiêu tự đại là không tốt.
c) Việc kết hợp các thao tác lập luận ấy có tác dụng gì?
- Làm cho lối lập luận thêm sinh động.
- Tăng hiệu quả thuyết phục nhờ sự kết hợp hài hòa giữa phân tích và so sánh.
e) Thao tác lập luận nào được sử dụng chính trong đoạn trích?
- Lập luận phân tích là chính. Người viết nêu hai lí do khuyên không nên tự kiêu tự đại: là khờ dại và là thoái bộ.
- Lập luận so sánh là phụ cốt để sự phân tích thêm rõ ràng, sâu sắc hơn.
g) Anh (chị) rút ra kết luận gì về việc vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận trong một bài văn nghị luận?
- Không thể chỉ sử dụng duy nhất một thao tác lập luận.
- Kết hợp nhiều thao tác lập luận sẽ làm tăng tính thuyết phục cho văn bản.
- Có thao tác chính và thao tác lập luận phụ trong lập luận, tùy vào mục đích yêu cầu của bài văn.
2. Vận dụng kết hợp phân tích và so sánh, viết một đoạn văn bàn về vẻ đẹp của một tác phẩm văn chương.
- Về thu trong khổ thơ đầu của Đây mùa thu tới.
Không giống với tâm trạng của Bạch Cư Dị tiễn khách trong một đêm trăng thu: “Bến tầm dương canh khuya đưa khách / Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu” (Tì bà hành) mà giống với Hàn Mặc Tử trong Buồn thu:
Ấp úng không ra được nửa lời
Tình thu bi thiết lắm thu ơi!
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi
Thu của Xuân Diệu cũng lấy biểu tượng là cành liễu. Liễu muôn đời thì lá vẫn rủ và xanh ven hồ (nếu không được trồng nơi khác). Giống mọi cây cối hay vạn vật tự nhiên khác, liễu buồn hay vui, khóc hay cười không phải do liễu mà do tâm trạng của người ngắm liễu, vẽ liễu hay miêu tả liễu. Vậy nên, trong Thơ mới mới có “liễu xanh ngắt” vào độ cuối thu của Hàn Mặc Tử và “liễu chịu tang” của Xuân Diệu:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Biện pháp nhân hoá đã được sử dụng ngay lúc mở đầu. Thực ra, Xuân Diệu còn sử dụng lối so sánh ngầm: “rặng liễu đìu hiu” như “đứng chịu tang”, như “tóc buồn buông xuống”, như “lệ ngàn hàng”. Dáng đứng của liễu là “đứng chịu tang”, âu sầu, buồn bã. Lá rủ của liễu là “tóc buồn buông xuống”, là “lệ ngàn hàng”. Cùng một dáng lá mà thi nhân hình dung ra hai dáng điệu: dáng tóc và dáng lệ. Lối quan sát và trí tưởng tượng ở đây quả thật tinh tế và khác lạ. Khi liễu buồn cũng là lúc thu về. Hay thu về khiến liễu buồn? ấy thế mà vào ngay câu thơ tiếp theo – một phần câu thơ được lấy làm nhan đề – nhà thơ bày tỏ một tâm trạng có phần khác hẳn: dường như là thoáng giật mình kín đáo, thảng thốt trước vẻ đẹp diệu kì vừa được khám phá:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Nếu bỏ hai câu thơ đầu, thay bằng hai câu khác (hay những từ khác) mang sắc thái trung tính hoặc bớt sầu đau, thì âm hưởng bài thơ sẽ không bị cái buồn của dáng liễu kia phong toả. Nói cách khác, trừ hai câu thơ đầu, hay trừ các từ diễn tả nỗi đau xót như đìu hiu, tang, buồn, lệ thì bài thơ sẽ không có âm điệu tái tê, sầu não mà chỉ là mang mác buồn như bản chất thu muôn thuở, như tâm hồn nghệ sĩ muôn thuở. Bài thơ quả có sự gặp gỡ kì lạ giữa cảnh thu của trời đất và hồn thu của thi nhân.
3. Đọc đoạn trích và trả lời các câu hỏi:
“Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài, như con gà ngon, ngon ở từng phao câu đầu cánh lắt lẻo khuỷu xương, không thể tóm tắt thơ được, mà phải đọc lại(1). Cái thú vị của bài “Thu điếu” là ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một mầu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi; ở những cử động: chiếc thuyền con lâu lâu mới nhích, sóng gợn tí, lá đưa vèo, tầng mây lơ lửng, ngõ trúc quanh, chiếc cần buông, con cá động; ở các vần thơ: không phải giỏi vì là những tử vận hiểm hóc, mà chính hay vì kết hợp với từ, với nghĩa chữ, đến một cách thoải mái, đúng chỗ, do một nhà nghệ sĩ cao tay; cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3 – 4 (...) (2).
Quá trình ngôn ngữ của thơ đi, từ đời Lê Hồng Đức, thật hãy còn vất vả, nặng nề:
Trời muốn trượng thẳm làu làu sạch,
đến Nguyễn Khuyến đã thành ra:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
thật trong sáng nhẹ nhàng, như không một trở lực nào níu được sự diễn đạt nữa(3). Thế mới biết những câu thơ thoải mái tự nhiên là kết quả của một sự khổ luyện, khổ luyện qua những thời đại, hoặc là khổ luyện trong một người”(4). (Xuân Diệu, Đọc thơ Nguyễn Khuyến).
a) Đoạn trích trên sử dụng thao tác lập luận gì? Thao tác lập luận phân tích và so sánh.
b) Đâu là thao tác lập luận chính, đâu là thao tác lập luận hỗ trợ?
- Thao tác lập luận phân tích là thao tác lập luận chính.
- Thao tác lập luận so sánh là thao tác hỗ trợ.
c) Dựa vào các câu đã được đánh số trong văn bản, hãy cho biết thao tác lập luận phân tích được thể hiện trong những câu văn nào?
- Các câu 1, 2, 4.
d) Thao tác lập luận so sánh được thể hiện trong những câu văn nào?
- Các câu 1 và 3.
e) Hiệu quả của việc vận dụng nhiều thao tác lập luận trong đoạn trích trên là gì?
- Giúp Xuân Diệu thể hiện được mục đích chủ yếu là đi phân tích cái hấp dân, thủ vị của bài “Thu điếu”.
- Sự so sánh chỉ có tác dụng bổ trợ để cho sự phân tích ấy rõ ràng, sâu sắc, thấm thía hơn.
- Soạn bài Luyện tập vận dụng kết hợp thao tác lập luận phân tích và so sánh
- Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia
Câu 1: Đọc đoạn văn Cần Kiệm liêm chính của Hồ Chí Minh và trả lời câu hỏi:
- Những thao tác lập luận được sử dụng trong đoạn trích trên là: phân tích, so sánh
- Mục đích của thao tác phân tích và so sánh giúp người đọc có thể hình dung một cách cụ thể, sinh động tự kiêu, tự đại là gì và tác hại của chúng đối vơi cuộc sống của con người.
- Vận dụng kết hợp các thao tác trong một bài văn nghị luận là một việc làm vô cùng cần thiết nhằm đem lại hiệu quả biểu đạt và làm sáng rõ vấn đề nghị luận.
Câu 2: Lựa chọn một bài thơ mà em thích để viết bài luận bàn về một nội dung của nó. Trong bài viết yêu cầu sử dụng kết hợp thao tác lập luận phân tích và thao tác so sánh.
Gợi ý các vấn đề cần nêu
Bài Thơ Thương Vợ của Tú Xương thuộc chương trình Ngữ Văn 11 cùng Phân tích bài thơ Thương Vợ để hiểu hơn về tác phẩm này.
Thực hành thành ngữ, điển cố là bài học nổi bật trong Tuần 6 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 11, học sinh cần Soạn bài Thực hành thành ngữ, điển cố, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK.