Câu 1 (trang 116 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Giống nhau: hoàn cảnh hai tác giả đều xa quê khi còn nhỏ và trở về khi đã già
+ Khi đi trẻ, lúc về già (Hạ Tri Chương)
+ Trở lại An Nhơn, tuổi lớn rồi (Chế Lan Viên)
- Khi trở về đều trở thành người lạ trên chính quê hương:
+ Đau xót, tủi hờn khi không còn ai nhận ra mình là người cùng quê ( Hỏi rằng: Khách ở nơi nào lại chơi? – Hạ Tri Chương)
+ Người đã biến đổi sau chiến tranh, thời gian, người xưa cảnh cũ không còn (Chế Lan Viên)
- Cả hai tác giả đều có sự đồng điệu, thể hiện tình cảm sâu sắc với quê hương dù hai tác giả cách nhau cả nghìn năm
Câu 2 (trang 116 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Học cũng có ích như trồng cây, mùa xuân được hoa, mùa thu được quả”
+ Mùa xuân, mùa thu là hình ảnh ẩn dụ
+ Hai mùa chỉ những gia đoạn khác nhau: ban đầu đơm hoa, sau đó sẽ thu được nhiều quả ngọt
+ Tương tự như chuyện học: tích lũy kiến thức thường xuyên dẫn tới thành công ( kiểu so sánh tạo động lực)
Câu 3 (trang 116 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Phong cách ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan
- Giống nhau: Viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật
- Khác:
+ Bài thơ Hồ Xuân Hương dùng từ ngữ ngôn ngữ bình dị hàng ngày (tiếng gà, chuông sầu, mõ thảm, tiếng rền rĩ, khắp mọi chòm…)
+ Sử dụng những chữ có âm khó dùng : duyên mõm mòm, già tom
+ Ngược lại, thơ bà Huyện Thanh Quan mang màu sắc trang trọng khi sử dụng nhiều từ Hán Việt (hoàng hôn, ngư ông viễn phố, mục tử cô thôn lữ…)
+ Sử dụng từ ngữ mang tính ước lệ, hình ảnh trong thơ cổ
⇒ Thơ Hồ Xuân Hương gần gũi với đám đông, có nét tinh nghịch phá cách. Thơ của bà Huyện Thanh Quan mang phong cách trang trọng, đài các.
Câu 4 (trang 117 sgk ngữ văn 11 tập 1)
Câu tục ngữ :Một mặt người bằng mười mặt của
- Con người là tài sản quý giá nhất trên đời, cha ông nhắc nhở thế hệ sau quý trọng con người hơn mọi của cải vật chất trên đời
- Bằng việc sử dụng phương pháp so sánh đối lập để nhấn mạnh giá trị, tầm quan trọng của con người (một = mười)
- Tiền bạc, của cải có thể làm ra được, còn con người thì không
- Câu tục ngữ cũng phê phán những kẻ xem trọng của cải vật chất, đánh mất đi những giá trị tốt đẹp của con người
- Soạn bài Luyện tập vận dụng kết hợp thao tác lập luận phân tích và so sánh
- Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia
1. Tâm trạng của nhân vật trữ tình khi về thăm quê trong hai bài thơ.
Trả lời:
Trong hai bài thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thể, tóc đà khác bao
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng : Khách ở chốn nào lại chơi?
(Hạ Tri Chương - Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quẻ - bán dịch của Phạm Sĩ Vĩ)
Trở lại An Nhơn, tuổi lớn rồi,
Bạn chơi ngày nhỏ chẳng còn ai
Nền nhà nay dựng cơ quan mới
Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người.
(Chế Lan Viên - Trở lại An Nhơn)
- Điểm giống nhau: Cả hai người đều rời quê hương ra đi lúc còn trẻ và trở vể lúc tuổi đã cao. Khi trở về, cả hai đều trở thành "người xa lạ" trên chính nơi mình đã sinh ra.
+ Hạ Tri Chương viết: Hỏi rằng: Khách à chốn nào lại chơi? vì không còn ai nhận ra mình là người cùng quê cả.
+ Chế Lan Viên viết: Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người, vì quê hương đã biến đổi quá nhiều sau chiến tranh, không còn cảnh cũ, người xưa nữa.
=> Cảm xúc chung: ngập ngùi, tiếc nuối, man mác buồn.
2. Học cũng có ích như trồng cây, mùa xuân cho hoa, mùa thu được quả.
Trả lời:
Học cũng có ích như trồng cây, mùa xuân được hoa, mùa thu được quả. Trong câu văn này, mùa xuân và mùa thu là những hình ảnh ẩn dụ. Mùa xuân, mùa thu ở đây chỉ các giai đoạn khác nhau: Ban đầu là lúc đơm hoa, cùng với thời gian sẽ thu hoạch được nhiều quả ngọt. Chuyện học hành cũng vậy. Cùng với thời gian tích luỹ kiến thức, người học rồi sẽ tiến bộ dần và rồi sẽ thành công. Đây là một câu so sánh để ta thêm kiên nhẫn trên con đường học tập.
3. So sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan qua hai bài thơ Tự tình (bài I) và Chiều hôm nhớ nhà.
Trả lời:
a. Tương đồng
Hai bài thơ có nhiều điểm tương đồng: Cùng là thể thơ thất ngôn bát cú, cả hai bài đều gieo vần chặt chẽ và đều tuân thủ nghiêm chỉnh luật đối (câu 3, 4 và câu 5, 6).
b. Khác biệt
Nhưng hai bài thơ có nhiều điểm khác nhau, nhất là cách dùng từ:
+ Bài thơ của Hồ Xuân Hương dùng nhiều những từ ngữ trong ngôn ngữ hằng ngày (tiếng gà văng vắng, mõ thảm, chuông sầu, những tiếng rền rĩ, khắp mọi chòm,...) kể cả những chữ rất khó dùng (cớ sao om, duyên mõm mòm, già tom). Trong bài chỉ có một câu nhiều từ Hán Việt: Tài tử vãn nhân ai đó tá?
+ Trong khi đó bài thơ cúa Bà Huyện Thanh Quan lại dùng nhiều từ Hán Việt: Hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, mục tử, cô thôn, lữ thứ, hàn ôn,... Nhiều từ ngữ mang tính ước lệ, được dùng nhiều trong thơ cổ như ngàn mai, dặm liễu.
c. Sự khác nhau nêu trên tạo ra sự khác nhau về phong cách:
+ Bài thơ của Hồ Xuân Hương có phong cách gần gũi với đám đông, tuy có xót xa nhưng vẫn có những nét tinh nghịch.
+ Bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan mang phong cách đài các, trang nhã. Đó là tiếng nói của văn nhân trí thức thượng lưu.
Mỗi bài thơ độc đáo và hay theo những cách riêng.
4. Tự chọn đề tài, viết đoạn văn so sánh.
Trả lời:
"Lời chào cao hơn mâm cỗ" hàm ý câu chào hỏi rất quan trọng, rất tình nghĩa, còn quý hơn cả việc mời nhau đến ăn uống tiệc tùng. "Lời chào cao hơn mâm cỗ" ý muốn nói đến phép lễ nghĩa hơn cái ăn. Sâu hơn là nhân cách của con người cao hơn "vật chất". Mâm cỗ có đầy, có sang trọng mới thể hiện được sự no đủ và hiếu khách của chủ nhà. Lời chào có nồng nhiệt, thân thiện mới chứng tỏ phẩm chất một ngưới có phép tắc, lễ nghĩa với một nền giáo dục tốt, và đậm chất văn hóa của dân tộc. Mâm cỗ là sự no đủ về vật chất, lời chào thể hiện cho sự thân thiện giữa người với người. Lời chào là "phương tiện" tình cảm mang hơi thở của xã hội.
Câu 1: Tâm trạng của nhân vật trữ tình qua hai bài thơ Trở lại An Nhơn của Chế Lan Viên và Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương:
Tự tình II | Chiều hôm nhớ nhà | |
Cách dùng từ | Dùng nhiều từ ngữ dân dã, gần gũi hàng ngày | Sử dụng từ hán việt, những từ ngữ mang tính ước lệ tượng trưng trong văn chương cổ. |
Phong cách | Gần gũi, tinh nghịch. Tuy nhiên vẫn xen lẫn nỗi buồn đau, bẽ bàng của nhân vật trữ tình | Trang trọng với nỗi buồn nhẹ nhàng mà thấm thía. |
------------------------HẾT-------------------------
Thực hành thành ngữ, điển cố là bài học nổi bật trong Tuần 6 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 11, học sinh cần Soạn bài Thực hành thành ngữ, điển cố, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK.
Trong chương trình học Ngữ Văn 11 phần Phân tích cảnh phố huyện ngày tàn trong phần đầu truyện ngắn Hai đứa trẻ là một nội dung quan trọng các em cần chú ý chuẩn bị trước.
Tìm hiểu chi tiết nội dung phần Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù để học tốt môn Ngữ Văn 11 hơn.