Đề bài: Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
1. Mở bài:
- Giới thiệu về nhà thơ Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa
- Giới thiệu khái quát về nội dung chính của khổ thơ thứ 2.
2. Thân bài:
- Mùi khói của bếp lửa đã trở thành một phần thân thuộc của tuổi thơ "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói"
- Bên bếp lửa cháu cùng bà sẻ chia những bữa cơm nghèo, mùi khói hun nhuộm cả tuổi thơ cơ cực mà ấm áp.
→ Mùi khói bếp trở nên gắn bó, thấm vào từng hơi thở nồng nàn của quê hương.
- Kí ức về nạn đói, về thời gian vất vả, cơ cực:
+ Nạn đói bao trùm làng xóm "đói mòn, đói mỏi".
+ Bố mưu sinh chăm lo cho gia đình, bươn chải ngày ngày đến héo mòn sức khoẻ " khô rạc ngựa gầy".
+ Cái đói, cái nghèo dai dẳng của quê hương đã in sâu trong tâm trí của nhà thơ.
- Nhớ về những năm tháng xưa, sống lại trong lòng nhà thơ là nỗi nghẹn ngào "đến giờ sống mũi còn cay":
- Bao kí ức yêu thương và cả những xót xa, cay đắng của tuổi thơ cơ cực, đói khổ vẫn còn vẹn trong tâm trí nhà thơ.
3. Kết bài:
Khái quát về giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ thơ.
Với khổ thơ thứ hai của thi phẩm "Bếp lửa", Bằng Việt đã tái hiện lại bức tranh về nạn đói năm 1945 ở Việt Nam một cách vô cùng chân thực, xúc động. Kí ức của nhân vật trữ tình trở về năm bốn tuổi. Ở cái tuổi ấy, người cháu "đã quen mùi khói" khi cùng bà nhóm bếp mỗi ngày. Đó là một phần không thể thiếu của tuổi thơ, khiến đứa cháu ngậm ngùi xúc động mỗi lần nhớ lại. Và tiếp đó là những cảm xúc xót xa khi hồi tưởng về "những năm đói mòn đói mỏi". Cái đói, cái nghèo bủa vây cả xã hội. Nó như một nỗi ám ảnh khôn nguôi đối với hai bà cháu cũng như đối với toàn bộ người dân trên đất nước Việt Nam. Hình ảnh người cha vất vả bươn chải, kéo xe đến "khô rạc ngựa gầy" chính là minh chứng rõ ràng nhất cho nỗi đau của dân tộc lúc bấy giờ. Bởi lí do ấy, nhân vật trữ tình đã dâng trào cảm xúc nghẹn ngào, xót xa. Những kí ức tuổi thơ dần mờ nhòa theo thời gian, nhưng cái mùi khói nồng đậm thì vẫn được nhân vật nhớ kĩ. Chi tiết "cay sống mũi" có thể được dùng để diễn tả phản ứng khi bị khói phả vào của con người. Nhưng bên cạnh đó, chi tiết này cũng có thể được hiểu là sự xúc động, nghẹn ngào đang bị dồn nén. Tất cả các yếu tố kể trên đều là thành phần không thể thiếu để tái hiện lại một thời kì lịch sử đau thương mà dân tộc phải trải qua. Nhờ vậy, các thế hệ sau lại càng trân trọng nền hòa bình, ấm no như ngày hôm nay của chính mình.
Tình cảm gia đình mà một chủ đề lớn trong thơ văn Việt Nam, đã có rất nhiều cây bút tài năng, nhiều tác phẩm xuất sắc viết về gia đình- nguồn cội, chốn yêu thương trong cuộc đời mỗi người. Chúng ta từng xúc động trước tình cảm của ông Sáu và bé Thu trong Chiếc lược ngà, từng rung động trước tấm lòng người mẹ trong Con cò của Chế Lan Viên, và chắc hẳn chúng ta cũng không thể nào quên được hình ảnh một người bà tận tụy, sớm hôm tảo tần, vì con vì cháu, giàu tình yêu thương trong Bếp lửa của Bằng Việt. Bài thơ viết về bà, về những kí ức tuổi thơ gian khó nhưng ấm áp bên bà, đặc biệt trong khổ thơ thứ 2, tác giả đã tái hiện đầy xúc động về những ngày tháng sống bên bà:
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!"
Khi trưởng thành, những kỉ niệm về những ngày tháng sống bên bà vẫn là những kí ức đẹp đẽ, là "hành trang" ấm áp, giá trị nhất mà người cháu luôn mang theo bên mình.
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói"
Kí ức năm lên bốn tuổi vẫn còn đó, mùi khói của bếp lửa đã mở ra những kỉ niệm về tuổi thơ gian khó và cả những nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Mùi khói của bếp lửa hay vị yêu thương được hun đúc từng ngày khi cháu bên bà.
Trong những năm tháng ấy, bên bếp lửa cháu cùng bà sẻ chia những bữa cơm nghèo, mùi khói hun vương vấn trong kí ức tuổi thơ cơ cực mà ấm áp. Mùi khói không biết tự bao giờ trở nên quen thuộc, trở thành một phần không thể thiếu của tuổi thơ cháu. Tuổi thơ của người cháu tuy không nhuốm sắc hồng viên mãn của sự đủ đầy nhưng vẫn đầy niềm vui khi được sống trong tình yêu thương và che chở của người bà kính mến.
" Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy"
Một hiện thực trần trụi của những năm tháng tuổi thơ được tái hiện bằng lời thơ trần thuật đầy tinh tế. Hai câu thơ chỉ với 16 tiếng mà đã mở ra cả bầu không khí đói khổ, cùng cực của người dân lúc bấy giờ. Trong nạn đói, ai cũng rơi vào cảnh khốn cùng, ngôi làng nhỏ của tác giả phải chịu đói, chịu lầm than trước sự tàn phá của lũ giặc cướp nước "đói mòn", "đói mỏi". Bố mưu sinh chăm lo cho gia đình, bươn chải ngày ngày đến héo mòn " khô rạc ngựa gầy". Cái đói, cái nghèo dai dẳng của quê hương đã in sâu trong tâm trí tác giả khi còn là một cậu bé "lên bốn". Đọc đến những câu thơ thực ấy, khiến ai cũng ngậm ngùi, xót xa bởi những thăng trầm nơi làng quê năm ấy, đồng cảm với những nhọc nhằn, vất vả của bao người lao động nghèo cơ cực, khốn khó.
Nhớ về những năm tháng xưa, lòng nhà thơ như nghẹn lại:
"Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"
Những kí ức in đậm trong tâm trí khiến người cháu như cảm nhận trọn vẹn hương vị cay nồng quen thuộc của mùi khói để giờ đây khi nghĩ lại mọi cảm xúc như vỡ òa khiến "sống mũi còn cay". Bao kỉ niệm yêu thương bên bà và cả những xót xa, cay đắng của cuộc sống cơ cực, đói khổ vẫn còn vẹn nguyên.
Bằng bút pháp tả, kể kết hợp với biểu cảm, ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị nhưng giàu sức gợi, chỉ với năm câu thơ ngắn thôi mà tác giả đã lay động tâm can người đọc. Mùi khói từ bếp lửa, từ bàn tay gầy guộc mà bà nhen nhóm đã khơi dậy trong lòng cháu bao nhiêu tình cảm thiết tha, hồn hậu mà đẹp đẽ. Đọc khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta càng thêm yêu, thêm quý quê hương mình, chút gì đó nghẹn ngào, xúc động và tự hào về những người bà một đời tần tảo bên cháu con:
"Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương
Dù da dẻ khô đi tấm lòng không hẹp lại
Giàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãi
Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm"
2.1. Dàn ý Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt hay nhất.
2.1.1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và bài thơ "Bếp lửa".
- Dẫn dắt vào khổ thơ thứ 2 của tác phẩm: Những kí ức đầy xúc động về tuổi thơ được sống bên bà.
2.1.2. Thân bài:
a, Tuổi thơ cơ cực với những kí ức kinh hoàng về nạn đói:
- Mùi khói bếp là một phần của tuổi thơ khó khăn, cơ cực mà ấm áp, gắn với những bữa cơm đạm bạc, với người bà tần tảo.
- Nạn đói kinh hoàng năm 1945:
+ "năm đói mòn đói mỏi": Cái đói bao trùm làng xóm.
+ Hình ảnh người cha vất vả đi đánh xe, bươn chải đến "khô rạc ngựa gầy".
=> Kí ức về cái đói, cái nghèo in sâu vào tâm trí người cháu.
b, Cảm xúc của nhân vật trữ tình:
- "Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu": Kí ức tuổi thơ dần mờ nhạt nhưng cảm giác cay của khói bếp vẫn còn y nguyên.
- "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!":
+ Những kí ức về tuổi thơ in đậm trong lòng người cháu đến tận bây giờ: có cả cay đắng, xót xa, cơ cực của sự đói khổ nhưng cũng có cả những yêu thương, đùm bọc của bà.
+ Nỗi nghẹn ngào mỗi khi nhắc đến khiến người cháu cay sống mũi.
2.1.3. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của khổ thơ thứ 2 trong bài "Bếp lửa".
- Liên hệ mở rộng.
2.2. Bài văn Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt ngắn gọn:
Chiến tranh dai dẳng đã đem lại bao mất mát, đau thương. Kí ức về những năm tháng kinh hoàng ấy vẫn còn ám ảnh con người đến tận ngày hôm nay. Nhà thơ Bằng Việt cũng đã nhắc đến chủ đề này qua khổ thứ hai của thi phẩm "Bếp lửa". Đoạn trích tuy chỉ vỏn vẹn năm câu nhưng cũng phần nào cho độc giả thấy được hoàn cảnh khó khăn, cơ cực mà người nông dân Việt Nam phải trải qua trong những năm 45 của thế kỉ XX.
Trước tiên, người đọc được đến với kí ức của nhân vật trữ tình về năm tháng tuổi thơ cơ cực:
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói"
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã giới thiệu đến người đọc về hình tượng bếp lửa thân thuộc, gần gũi thì đến khổ thơ này, "mùi khói" lại hiện hữu và gắn liền với kí ức của đứa cháu nhỏ. Đó là những buổi sớm cùng bà ngồi nhóm bếp, là kỉ niệm về những bữa cơm đạm bạc. Mùi khói bếp ấy tượng trưng cho tuổi thơ cơ cực, khó khăn nhưng vô cùng ấm áp bên bà.
Tiếp tục đến những câu thơ tiếp theo. Người đọc lại được theo dòng kí ức của nhân vật để ngược lại về nạn đói kinh hoàng năm 1945:
"Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy"
Cụm từ "đói mòn đói mỏi" đã vạch ra sự thật trần trụi của cả một xã hội lúc bây giờ. Cái đói, cái khổ không chỉ là nỗi ám ảnh của riêng tác giả mà còn là kí ức kinh hoàng của toàn bộ dân tộc Việt Nam nói chung. Sự kiện ấy đã gây ra bao lầm than, cứa sâu vào nỗi đau trong lòng con người. Ở đây, hình ảnh người bố xuất hiện như một minh chứng rõ ràng cho nạn nhân của cái đói, cái khổ. Vì nghèo, cha mẹ phải gửi con ở với bà để đi lao động kiếm sống. Người cha làm công việc tay chân, vất vả đến "khô rạc ngựa gầy". Chỉ bốn chữ ngắn gọn thôi nhưng lại ẩn chứa bao xót xa, cay đắng cho số phận của biết bao người lao động nghèo trong xã hội bấy giờ. Chính những kí ức kinh hoàng đã hằn sâu vào tâm trí đứa trẻ bốn tuổi cũng như rất nhiều thế hệ người dân Việt Nam, mãi không thể xóa nhòa.
Để rồi sau khi nhớ lại những kỉ niệm đau thương ấy, cảm xúc của người cháu càng nghẹn ngào, xót xa:
"Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"
Trong những buổi sớm mai cùng bà ngồi nhóm bếp, đứa cháu nhỏ đã quen với mùi khói. Nhân vật trữ tình cảm nhận được trọn vẹn cái nồng từ làn khói bếp. Vì những kí ức khắc sâu, đến tận bây giờ, mỗi khi nghĩ lại, người cháu vẫn thấy "sống mũi còn cay". Đó vừa là cái cay do khói từ bếp củi, vừa là sự xúc động không thể kìm nén khi nhớ lại hoàn cảnh của bao con người trong những năm tháng đói khổ. Nhưng bên cạnh đó, đứa cháu nhỏ vẫn còn tình yêu thương và sự bao bọc của bà. Chính điều này đã tạo nên sức mạnh để hai bà cháu vượt qua hoàn cảnh bi thảm khi xưa.
Bằng lời thơ giản dị, chân thực cùng những hình ảnh giàu sức gợi, Bằng Việt đã thành công tái hiện bức tranh hiện thực tàn khốc của xã hội Việt Nam giữa thế kỉ XX. Ông còn làm nổi bật sức mạnh của tình cảm gia đình, tình yêu thương, đùm bọc giữa hai bà cháu. Qua đó, độc giả càng thêm xót xa cho những con người lao động nghèo khổ. Đồng thời, thêm trân quý những giá trị đẹp đẽ mà tác giả muốn truyền tải.
-------------------HẾT---------------------
Với khổ thơ thứ hai, Bằng Việt đã thành công tái hiện lại tuổi thơ gian khó nhưng tràn đầy tình yêu thương của nhân vật trữ tình. Qua bài phân tích trên, chắc hẳn các em cũng có cho mình những kiến thức hữu ích về cách làm bài nghị luận văn học. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm những bài văn mẫu khác để hiểu rõ hơn về bài thơ Bếp lửa: Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, Phân tích khổ 4 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, Cảm nhận về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, Cảm nhận vẻ đẹp khổ thơ cuối trong bài thơ Bếp lửa.