Soạn bài Cô bé bán diêm trang 64 SGK Ngữ văn 8 tập 1
Câu 1.
Tóm tắt:
Đêm giao thừa, trời rét mướt. Một cô bé bán diêm nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, bụng đói dò dẫm đi trong bóng tối. Em không dám về nhà vì sợ bố đánh, vì em không bán được que diêm nào. Ngồi nép một góc tường, em quẹt một que diêm sưởi ấm. Quẹt que diêm đầu tiên, em tưởng như ngồi trước lò sưởi, vừa duỗi chân ra sưởi thì diêm vụt tắt. Que diêm thứ hai, em thấy bàn ăn thịnh soạn...rồi diêm vụt tắt. Que diêm thứ ba thấy cây thông Nô-en, em với tay về phía cây... diêm tắt. Que diêm thứ tư, thật kì diệu, em nhìn thấy người bà hiền hậu độc nhất với em, nhưng bà đã chết từ lâu. Rồi diêm vụt tắt, em quẹt hết cả bao diêm để níu bà. Rồi em cùng bà bay lên cao. Sáng hôm sau, người ta đã thấy một cô bé bán diêm chết vì giá rét, má hồng và đôi môi mỉm cười.
Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu... cứng đờ ra): cô bé bán diêm trong đêm giao thừa.
- Phần 2 (tiếp.. .chầu thượng đế): Thực tế và mộng tưởng.
- Phần 3 (còn lại): cái chết thương tâm của cô bé bán diêm.
Câu 1 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Chia phần 2 của văn bản thành những đoạn nhỏ căn cứ vào từng lần quẹt diêm:
- Lần 1: hiện lên chiếc lò sưởi.
- Lần 2: hiện lên bàn ăn thịnh soạn.
- Lần 3: hiện lên cây thông Nô-en.
- Lần 4: em được gặp bà.
Câu 2 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
- Gia cảnh: cô bé bán diêm nghèo, mồ côi mẹ, bà nội đã qua đời, em sống với người bố khó tính luôn mắng nhiếc, đánh đập.
- Thời gian: đêm giao thừa. Không gian: mọi nhà sáng đèn, ngỗng quay, ngoài đường tối tăm, lạnh lẽo.
* Những hình ảnh tương phản được sử dụng khắc hạ nỗi khổ cực của cô bé:
- Ngôi nhà đẹp đẽ trước kia em sống - xó tối tăm trên gác sát mái nhà.
- Mọi nhà rực ánh đèn, mùi ngỗng quay - em bé đói rét, dò dẫm trong đêm tối.
Câu 3 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Những mộng tưởng của cô bé qua các lần quẹt diêm diễn ra theo thứ tự hợp lí, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và tâm lí em bé: Lạnh (lò sưởi) → đói (bàn ăn) → ao ước đêm giao thừa (cây thông Nô-en) → cô đơn, khổ cực (nhớ đến người bà hiền hậu). Trong đó, có điều thứ 4 (em gặp bà) thuần túy là mộng tưởng.
Câu 4 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
- Truyện Cô bé bán diêm mang tính nhân đạo sâu sắc về những mảnh đời bất hạnh.
- Đoạn kết của truyện:
+ Là một bi kịch đau thương, cái chết một cô bé trong cô đơn giá lạnh, trong đói khát, trong đêm giao thừa, một cái chết đầy xót xa.
+ Nhìn một mặt khác, “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười” , cái chết của sự giải thoát, em cùng bà về chầu Thượng đế, em đi vào cõi bất tử cùng người bà hiền hậu độc nhất với em.
Bố cục:
+ Phần 1 (từ đầu đến "cứng đờ ra"): Hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm.
+ Phần 2 (tiếp đến "chầu Thượng đế"): Những lần quẹt diêm của cô bé.
+ Phần 3 (còn lại): Cái chết thương tâm của em bé và thái độ của mọi người.
Tóm tắt
Trong đêm giao thừa, trời rét mướt, có một cô bé đầu trần, chân đất, bụng đói đang đi bán diêm trong bóng tối. Cô bé ấy mồ côi mẹ và đã mất đi bà nội - người thương yêu cô nhất. Cô bé không dám về nhà vì sợ sẽ bị bố đánh nếu không bán được bao diêm nào. Vừa lạnh vừa đói, cô bé nép vào một góc tường rồi khe khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Quẹt que diêm thứ nhất, lò sưởi hiện ra. Quẹt que thứ hai, cô bé thấy bàn ăn thịnh soạn. Quẹt que thứ ba, cô bé thấy cây thông Nô-en. Quẹt quẹt que thứ tư, em gặp bà nội hiền từ và phúc hậu. Cô bé vôi quẹt hết cả bao diêm để mong giữ bà lại. Nhưng cuối cùng, cô bé bán diêm đã chết trong giá rét khi mơ cùng bà bay lên cao mãi.
Câu 1: (trang 68 sgk Ngữ văn 8 tập 1):
- Ba phần của vă bản nếu lấy việc những lần em bé quẹt diêm làm trọng tâm là:
+ Phần 1 (từ đầu đến "cứng đờ ra"): Hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm.
+ Phần 2 (tiếp đến "chầu Thượng đế"): Những lần quẹt diêm của cô bé.
+ Phần 3 (còn lại): Cái chết thương tâm của em bé va thái độ của mọi người.
- Căn cứ vào những lần quẹt diêm của cô bé có thể chia phần thứ 2 (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn.
Câu 2: ( trang 68 sgk Ngữ văn 8 tập 1):
- Gia cảnh của cô bé bán diêm:
+ Gia cảnh nghèo khó, mồ côi mẹ, bà nội - người thương yêu cô nhất cũng đã mất.
+ Sống cùng người bố trong một xó tối tắm, thường xuyên bị mắng nhiếc, chửi rủa.
- Thời gian: đêm giao thừa.
- Không gian: ngoài đường phố tối tăm và lạnh lẽo.
- Những hình ảnh tương phản được nhà văn sử dụng trong phần này nhằm khắc họa nỗi khổ cực của cô bé là:
+ Cái xó tối tăm, sát mái nhà lạnh lẽo ngôi nhà xinh đẹp.
+ Em bé đi bán diêm trong đêm giao thừa đối tương phản với mọi người chuẩn bị đón giao thừa.
+ Trời đông giá rét, tuyết rơi tương phản với em bé đầu trần, chân đi đất.
+ Ngoài trời lạnh lẽo, tối tăm tương phản với cửa sổ mọi nhà sáng rực đèn.
+ Em bé bụng đói tương phản với sực nức mùi ngỗng quay.
Câu 3: (trang 68 sgk Ngữ văn 8 tập 1):
- Những mộng tưởng của cô bé bán diêm qua những lần quẹt diêm diễn ra theo thứ tự hợp lí:
+ Muốn được sưởi ấm và ăn no: lò sưởi và ngỗng quay.
+ Muốn được vui chơi, quây quần bên gia đình: cây thông Nô-en.
+ Muốn được che chở yêu thương: bà nội hiền từ.
+ Muốn được giải thoát nỗi bất hạnh, tìm đến nơi hạnh phức vĩnh hằng: cùng bà bay lên trời.
- Trong các mộng tưởng ấy:
+ Điều gắn với thực tế: lò sưởi, ngỗng quay, cây thông
+ Điều thuần túy chỉ là mộng tưởng: gặp bà nội hiền từ và cùng bà bay lên cao
Câu 4: (trang 68 sgk Ngữ văn 8 tập 1):
- Cô bé bán diêm có hoàn cảnh đáng thương và tội nghiệp: gia cảnh khó khăn, sống thiếu tình yêu thương của mẹ và bà, phải sống cùng bố thường xuyên mắng nhiếc, chửi rủa.
- Cô bé có ước mơ giản dị, hồn nhiên: muốn được ăn no, mặc ấm, được yêu thương, vui chơi và quây quần bên gia đình.
- Trong đoạn kết truyện, em bé đã chết trong cái đói và rét bên lề đường. Cái chết của em bé vừa có sự bi thương, tội nghiệp nhưng đồng thời cũng mang màu sắc cổ tích, phản ánh ước mơ, khát khao hạnh phúc của con người.
---------------------HẾT--------------------
Các tác phẩm văn học là một trong những nội dung rất quan trong mà các em cần tìm hiểu, phân tích thật kỹ để có kỹ năng làm văn tốt. Phần soạn bài Lão Hạc là một tài liệu tuyệt vời để các em có thể tham khảo để nâng cao kiến thức cũng như kỹ năng phân tích tác phẩm của mình.