1. Mở bài:
- Giới thiệu về truyện ngắn "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân.
- Giới thiệu về nhân vật thị.
2. Thân bài:
a) Lai lịch xuất thân, hoàn cảnh của thị:
- Không có quê hương, gia đình.
- Chỉ được gọi bằng cái tên "thị": cách gọi những người phụ nữ nói chung -> Không có tên tuổi, danh tính rõ ràng.
- Là nạn nhân của nạn đói 1945, không có việc làm cụ thể.
- Được anh cu Tràng "nhặt" về như cọng rơm, cọng rác ngoài đường -> Sự rẻ mạt của con người trong nạn đói.
=> Số phận nhỏ bé, đáng thương của thị đã phản ánh tình cảnh khốn khổ của nhân dân ta khi bị cả thực dân Pháp và phát xít Nhật bóc lột.
b) Ngoại hình của thị:
- Người gầy sọp, quần áo tả tơi như tổ đỉa.
- Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
- Ngực gầy lép.
=> Ngoại hình ốm yếu, bi thảm, đáng thương, là hiện thân của sự nghèo đói.
c) Tính cách của thị:
- Lần thứ nhất gặp Tràng: "cong cớn", "lon ton lại đẩy xe cho Tràng", "liếc mắt cười".
- Lần thứ hai gặp Tràng:
+ "chạy sầm sập đến", "đứng trước mặt hắn sưng sỉa", "cong cớn", từ chối ăn trầu.
+ Khi được mời ăn thì hai con mắt lập tức "sáng lên", "đon đả".
+ Ăn một chập bốn bát bánh đúc.
=> Thị ban đầu xuất hiện đã gây ấn tượng là người đàn bà đanh đá, chua ngoa, sẵn sàng vì miếng ăn mà đánh đổi.
- Khi theo Tràng về nhà, thị đã hoàn toàn thay đổi:
+ Trên đường về thị vô cùng ngượng nghịu: "đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt", "Thị có vẻ rón rén, e thẹn", "chân nọ bước díu cả vào chân kia".
+ Chỉ dám ngồi ở mép giường, tay vân vê tà áo đã rách bợt.
+ Sau đêm tân hôn, thị trở thành người vợ hiền hậu, đúng mực.
+ Khi nhìn thấy nồi cháo cám, "mắt Thị tối lại" nhưng cô vẫn điềm nhiên cho vào miệng.
-> Điều này thể hiện sự tôn trọng, ý tứ với mẹ chồng.
=> Thị thực chất là con người ngoan hiền, đoan trang nhưng chính cái đói đã khiến cho cô đánh mất đi nét đẹp vốn có, trở thành con người chao chát, chỏng lỏn.
d) Những phẩm chất tốt đẹp trong con người thị:
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Tuy chỉ mới gặp Tràng hai lần, không biết rõ về Tràng nhưng thị vẫn chấp nhận theo anh về nhà. Tuy không có sính lễ nhưng thị vẫn chấp nhận vì không muốn phải sống cảnh lang thang, lay lắt nữa.
+ Khi nhìn thấy gia cảnh nhà Tràng, tuy thất vọng nhưng thị vẫn "nén một tiếng thở dài", chấp nhận lựa chọn của mình để có cơ hội sống tiếp.
- Có niềm tin vào tương lai tươi sáng: Thị kể lại chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang cho mọi người nghe -> Gieo cho mọi người hi vọng về tương lai ấm no, hạnh phúc.
e) Đánh giá:
* Về nhân vật thị:
- Tuy chỉ là người được "nhặt" về nhưng thị đã đem lại làn gió mới cho xóm ngụ cư, cho gia đình bà cụ Tứ, khiến anh cu Tràng trở thành người đàn ông chín chắn.
- Giá trị của tác phẩm được thể hiện qua nhân vật:
+ Giá trị nhân đạo: Nhân vật thị đã thể hiện khao khát về hạnh phúc của con người.
+ Giá trị hiện thực: Lai lịch, ngoại hình và sự biến đổi trong tính cách của thị đã phần nào cho chúng ta thấy hiện thực xã hội khi đó. Nhân dân ta bị thực dân Pháp và phát xít Nhật bóc lột nặng nề, mạng sống con người như rơm rác. Cái đói khiến cho con người bị tha hóa về ngoại hình, tính cách.
* Về nghệ thuật:
- Tình huống truyện đặc sắc, giúp cho nhân vật bộc lộ được những nét tính cách, phẩm chất trong con người.
- Lối kể chuyện tự nhiên, độc đáo.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo.
- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.
3. Kết bài:
- Khái quát lại về nhân vật thị.
- Liên hệ mở rộng.
Đề tài về số phận của người phụ nữ luôn được ví như "mảnh đất màu mỡ", được nhiều tác giả khai thác trong các tác phẩm của mình. Đến với văn chương trung đại, ta được thấy sự đức hạnh, tài hoa mà cũng thật bi thương, bất hạnh của họ qua "Chuyện người con gái Nam Xương", "Truyện Kiều". Trong kháng chiến, ta ca ngợi vẻ đẹp của những người phụ nữ kiên cường, anh dũng, trung hậu qua "Người mẹ cầm súng", "Bếp lửa", "Những ngôi sao xa xôi",... Nhà văn Kim Lân thì có một góc nhìn khác. Với "Vợ nhặt", ông đã đưa đến hình ảnh của người con gái có số phận đáng thương, gần như bị tha hóa bởi nạn đói nhưng vẫn luôn khao khát, hi vọng về tương lai. Đó chính là "thị", một trong những nhân vật trung tâm của câu chuyện.
Xuyên suốt truyện ngắn, Kim Lân không hề giới thiệu thị là ai. Cô không có quê hương, gia đình, không có hoàn cảnh xuất thân hay danh tính rõ ràng. Cô xuất hiện trong đám con gái "ngồi vêu ra" trước cửa nhà kho để nhặt những hạt rơi vãi, hay ai có việc gì cần thì gọi đi làm. Đến cả cái tên cô cũng không có. Nhà văn chỉ gọi cô là "thị" - một danh từ chung dùng cho tất cả những người phụ nữ. Người đọc có thể hiểu được thị chính là đại diện cho số phận của rất nhiều những cô gái khác trong nạn đói, phải lưu lạc đầu đường xó chợ, không nơi nương tựa. Nhưng may mắn hơn, thị được anh cu Tràng "nhặt" về làm vợ. Từ "nhặt" đã cho ta thấy sự rẻ mạt của con người trong thời kì đó. Con người như vật vô giá trị sống lang thang, được "nhặt" về như cọng rơm, cọng rác ngoài đường.
Chính vì nạn đói mà ngoại hình của thị chẳng thể nào khá được. Dáng người của thị "gầy sọp", "quần áo thì tả tơi như tổ địa". Trên "khuôn mặt lưỡi cày xám xịt" chỉ nhìn thấy hai con mắt. Ngực thì gầy lép. Thị cũng giống như rất nhiều người dân khác lúc đó, vì không có cái ăn nên người trông ốm yếu, nghèo nàn, đáng thương.
Cái đói, cái nghèo không chỉ làm cho ngoại hình của con người biến dạng, xấu xí mà cả tính cách cũng trở nên ích kỉ, chua ngoa hơn. Thị cũng thế. Khi Tràng buông lời trêu chọc, thị cong cớn không tin. Thế nhưng chỉ cần có "cơm trắng mấy giò", cô liền "lon ton lại đẩy xe cho Tràng", lại còn "liếc mắt cười" đầy tình tứ. Lần thứ hai gặp lại, thị "chạy sầm sập đến" chỗ Tràng, "đứng trước mặt hắn sưng sỉa", chất vấn anh tại sao lại nuốt lời. Thậm chí, thị còn từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, làm no cái bụng đang đói meo của mình. Sau khi nghe thấy lời mời "Đấy, muốn ăn gì thì ăn", thị lại "đon đả", hai con mắt lập tức "sáng lên". Rồi, thị ăn một chập bốn bát bánh đúc. Ăn xong, thị lại chấp nhận lời bông đùa của Tràng mà theo anh về làm vợ. Đọc đến đây, độc giả nhận thấy rằng thị chắc hẳn là người đàn bà đanh đá, chua ngoa, sẵn sàng vì miếng ăn mà đánh đổi, chẳng còn để tâm đến thể diện hay thái độ ý tứ, nết na mà người con gái cần có. Thế nhưng ẩn sâu bên trong cô lại là nét hiền thục, e thẹn đã bị cái đói làm cho lu mờ đi. Tính cách ấy chỉ được bộc lộ khi thị theo Tràng về nhà. Trên đường đi về, cô vô cùng ngượng nghịu "đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt", "Thị có vẻ rón rén, e thẹn", "chân nọ bước díu cả vào chân kia". Vào đến nhà, cô chỉ dám ngồi ở mép giường. Gặp bà cụ Tứ, cô cũng rất ngại ngùng, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Trải qua một ngày có quá nhiều thay đổi, sáng hôm sau, thị trở thành người vợ hiền hậu, đúng mực. Cô chẳng còn vẻ chao chát, chỏng lỏn ngày trước mà cùng mẹ chồng dọn dẹp lại ngôi nhà. Nghe lời mẹ "lẳng lặng đi vào bếp" lấy đồ ăn. Thậm chí, nhìn thấy nồi cháo cám, "mắt thị tối lại" nhưng cô vẫn điềm nhiên cho vào miệng. Chi tiết này đã thể hiện sự ý tứ, tôn trọng mẹ chồng của thị. Chính ra, thị cũng là người con gái nết na, hiền thục. Nhưng có lẽ những tháng ngày lang thang đã cướp đi vẻ đẹp ấy của cô, biến cô trở thành người đàn bà chua ngoa, đanh đá, không có lòng tự trọng. Từ đó, người đọc thấy được cái nghèo, cái đói có thể che lấp đi mặt tốt của con người nhưng không thể hoàn toàn xóa bỏ những điều tốt đẹp ấy.
Tuy khó khăn là thế nhưng ta vẫn phải dành lời khen cho thị vì cô luôn giữ được khát vọng sống mãnh liệt. Tuy mới chỉ gặp Tràng hai lần, không biết anh ta là ai nhưng thị vẫn chấp nhận theo anh về nhà. Cô biết rằng người đàn ông cho mình ăn này sẽ là "cọng rơm" cứu mạng cô, cưu mang cô trong nạn đói. Miễn chỉ cần có một chỗ trú khi trời mưa giông bão, cô không cần đến sính lễ hay đám cưới. Khi nhìn thấy gia cảnh nhà Tràng, tuy thất vọng nhưng thị vẫn "nén một tiếng thở dài", chấp nhận lựa chọn của để mình có cơ hội sống tiếp. Không chỉ có khát vọng sống mãnh liệt, thị còn có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Cô đã kể lại câu chuyện Việt Minh phá kho thóc của Nhật trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang cho Tràng và bà cụ Tứ nghe. Từ đó, gieo vào lòng họ hi vọng về tương lai ấm no, hạnh phúc.
Để miêu tả thị một cách chân thực, Kim Lân đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo, lối kể chuyện tự nhiên, độc đáo cùng với những ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Ngoài ra, tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn cũng giúp cho nhân vật bộc lộ những nét tính cách, phẩm chất thú vị. Lai lịch, ngoại hình và sự biến đổi trong tính cách của thị cũng phần nào cho ta thấy được hiện thực xã hội khi đó. Nhân dân ta bị thực dân Pháp và phát xít Nhật bóc lột nặng nề. Mạng sống con người như rơm rác, cái đói khiến con người bị tha hóa về cả ngoại hình lẫn tính cách. Từ nhân vật thị, nhà văn cũng muốn thể hiện khát khao về quyền được sống, về hạnh phúc lứa đôi, về cuộc đời ấm no, hạnh phúc của tất cả người dân thời bấy giờ.
Thị là một nhân vật độc đáo, khác lạ trong truyện ngắn của Kim Lân nói chung và nền văn học Việt Nam nói riêng. Không đi theo logic về những số phận bi kịch thông thường, cô được nhà văn xây dựng với một hình tượng đáng thương nhưng vẫn sáng lên khát vọng mãnh liệt. Tuy chỉ là người vợ được "nhặt" về nhưng chính thị đã khiến anh cu Tràng trở thành người đàn ông chín chắn, đem lại làn gió mới cho xóm ngụ cư, cho gia đình bà cụ Tứ. Từ đó, tác giả muốn gửi gắm niềm hi vọng vào sức mạnh của tình người, của tương lai tươi sáng cho dân tộc.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Tuy nạn đói 1945 đã tha hóa thị cả về ngoại hình lẫn tính cách nhưng cô vẫn giữ được khát vọng sống cao đẹp và niềm tin vào tương lai cho mình. Ngoài bài mẫu Phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ Nhặt, em có thể xem thêm các mẫu khác trên Taimienphi.vn như: Phân tích tình huống truyện trong Vợ nhặt; Giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt; Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt,....