Phân tích lời thoại của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Đề bài: Phân tích lời thoại của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Mục lục bài viết:
I. Dàn ý chi tiết
II. Bài văn mẫu

Phân tích lời thoại của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương


I. Dàn ý Phân tích lời thoại của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương (Chuẩn)

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương".
- Dẫn dắt đến vấn đề cần phân tích: Lời thoại của Vũ Nương trong tác phẩm.

2. Thân bài:

a. Khi tiễn chồng đi lính:

- Vũ Nương bộc bạch nỗi lòng của mình bằng những lời nói dịu dàng, tình cảm, yêu thương dành cho người chồng.
+ Nàng không mong chồng được phong quan, làm tướng, nàng chỉ mong cầu chồng trở về bình yên.
+ Cảm thông sự vất vả, gian lao của người chồng: "Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường...".
+ Nhớ thương khắc khoải: "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú...".

b. Khi bị chồng nghi oan:

- Vũ Nương hết mực phân trần: "Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót".
→ Những lời nói bi thương của nàng khẳng định tấm lòng thuỷ chung nhất mực của nàng và mong muốn hóa giải những hiềm khích, hiểu lầm.
- Khi chồng nhất quyết không tin, Vũ Nương đau đớn mà nói: "... Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan...đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa".
→ Thể hiện nỗi thất vọng cùng cực của Vũ Nương khi bị chồng con ruồng bỏ.
- Vũ Nương gieo mình xuống sông Hoàng Giang để chứng minh tấm lòng trong sạch: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, phải tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám".
→ Nỗi thất vọng đến cùng cực đau khổ của Vũ Nương khi bị nghi oan là thất tiết và bị dồn tới đường cùng phải lấy cái chết để minh oan cho chính mình.

c. Khi gặp Phan Lang

- Khi nghe Phan Lang kể về quê cũ, Vũ Nương đã "ứa nước mắt", bởi nàng là một người con gái thuỷ chung, son sắt, luôn một lòng hướng về quê cũ, về gia đình .
- Nàng đã "quả quyết đổi giọng" mà rằng: "Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Vả chăng ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất có người tìm về".
→ Điều này cho thấy khát vọng được trở về, được minh oan của nàng, nó còn cho thấy nàng rất trọng tình nghĩa và danh dự.

d. Ở bến Hoàng Giang:

- Khi được Trương Sinh giải oan, Vũ Nương đã hiện lên và nói rằng: "Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa":
+ Nàng chọn ở lại thuỷ cung cùng Đức Linh Phi: cho thấy nàng là một người trọng tình nghĩa, luôn biết ơn ân nhân của mình.
+ Nàng còn cảm tạ cả Trương Sinh - kẻ gây ra nỗi oan cho nàng: thể hiện đức tính vị tha của người phụ nữ Việt Nam.

3. Kết bài:

- Cảm nghĩ về Vũ Nương
- Khẳng định giá trị của tác phẩm.


II. Bài văn mẫu Phân tích lời thoại của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương (Chuẩn)

1. Phân tích lời thoại của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu số 1: 

"Chuyện người con gái Nam Xương" là một trong hai mươi câu chuyện thuộc tác phẩm "Truyền kì mạn lục" của nhà văn Nguyễn Dữ. Câu chuyện kể về cuộc đời của người con gái mang tên Vũ Nương- một người con gái đức hạnh, nết na nhưng lại phải chịu số phận oan trái, hẩm hiu. Thông qua những lời thoại của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, nhà văn Nguyễn Dữ đã để nhân vật của mình bộc lộ trọn vẹn những đức tính, phẩm hạnh tốt đẹp và cả số phận trớ trêu, trái ngang.

Vũ Nương là người con gái ở đất Nam Xương, nàng xinh đẹp, "nết na lại thêm tư dung tốt đẹp" nên được Trương Sinh cùng mẹ "đem trăm lạng vàng cưới về". Xinh đẹp, đức hạnh là vật nhưng nàng lại không thể tự quyết định số phận cho chính bản thân mình. Chồng Vũ Nương là Trương Sinh, tuy là "con nhà hào phú" nhưng lại "ít học" và có tính "đa nghi". Hiểu tính cách của chồng nên từ khi lấy chồng, Vũ Nương luôn là người phụ nữ giữ gìn khuôn phép trong gia đình, luôn giữ trọn đạo làm vợ, làm con. Cho đến khi Trương Sinh bị bắt đi lính đánh Chiêm, Vũ Nương khi tiễn chồng mới lần đầu bộc bạch nỗi lòng của mình: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Vũ Nương sinh ra là "con kẻ khó", vậy mà mỗi lời nàng nói ra khi tiễn chồng đều chứa đựng sự nề nếp, gia giáo của một vị tiểu thư đài các. Nàng biết chồng đi phải đi lính xa nhà nhưng lại chẳng mong cầu vinh hiển, chỉ mong cầu bình an cho chồng . Nếu là lẽ thường, hẳn Vũ Nương phải mong đợi chồng làm được những điều lớn lao, để được ban thưởng, phong tước, để nàng và gia đình được rạng danh nhưng Vũ Nương lại chỉ mong chờ sự bình yên trở về của người chồng. Điều đó cho thấy Vũ Nương là một người phụ nữ rất coi trọng hạnh phúc gia đình, coi trọng tình nghĩa vợ chồng hơn danh hoa phù phiếm.

Không chỉ vậy, nàng còn cảm thông sâu sắc với nỗi vất vả mà người chồng phải chịu đựng khi đi lính xa nhà "Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian nan, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng". Có thể nói rằng Vũ Nương quả là một người phụ nữ hết mực chu toàn, hết mực lo lắng cho chồng con. Trong lời tiễn dặn chồng, Vũ Nương đã thể hiện nỗi nhớ thương khắc khoải khôn nguôi của một người chinh phụ yêu chồng tha thiết: "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng". Trong lời nói tiễn biệt của mình, Vũ Nương chỉ dám xưng mình là "tiện thiếp", thấp bé, nhỏ nhoi trước người chồng của mình. Những lời nàng nói ra đều chứa chan sự dịu dàng, yêu tha thiết, hết mực người chồng của mình. Lời dặn dò ấy xuất phát từ một trái tim của người phụ nữ giàu lòng yêu thương chồng, biết chấp nhận những phút giây thử thách, biết đợi chờ thuỷ chung để người đi xa yên lòng. Những lời nói của Vũ Nương còn cho ta thấy được những khát vọng rất đỗi bình dị, đời thường của một người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Đoạn đối thoại thứ hai của Vũ Nương là khi nàng bị chồng nghi oan "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu... Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót...". Đây là những lời nói đầy bi thương của Vũ Nương để phân trần, để khẳng định tấm lòng thuỷ chung của nàng. Ba năm Trương Sinh đi lính là ba năm Vũ Nương một mình sinh con, lo cho con, cho mẹ già. Chính người mẹ chồng già khi lìa đời cũng đã công nhận công lao to lớn của nàng. Ấy vậy mà người chồng lại chỉ vì một lời nói không rõ của con trẻ mà nghi ngờ nàng thất tiết. Từng lời nàng bày tỏ là những lời chân thành hết mực, giãi bày hết những tâm tư trong lòng, nàng cũng hiểu rằng mình là con kẻ nghèo khó, vậy nên nàng chỉ mong người chồng của mình có thể hiểu thấu tấm lòng nàng mà hàn gắn lại hạnh phúc của gia đình.

Khi Trương Sinh nhất mực "đuổi đánh nàng đi", Vũ Nương trong sự bi phẫn, đau khổ đã "bất đắc dĩ" mà nói rằng: "Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sẽ rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa". Đoạn đối thoại này của nàng là dành cho Trương Sinh. Nàng đã nói lên sự thất vọng đau đớn khôn cùng của một người vợ nhất mực thuỷ chung nhưng lại bị nghi oan là "thất tiết". Đó cũng là sự tuyệt vọng đến vô cùng của một người phụ nữ khi niềm hạnh phúc nàng vun vén cả đời bị vỡ nát. Sự thuỷ chung, nỗi nhớ thương khi chờ chồng, tất cả đã trở thành hư vô! Nói rồi, Vũ Nương quyết định gieo mình xuống bến Hoàng Giang mà tự vẫn. Trước khi trầm mình nàng đã thề với trời rằng: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, phải tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám...". Đây là nỗi lòng của nàng, đó còn là một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho tấm lòng chung thuỷ, tiết hạnh của nàng. Lời thoại này còn bày tỏ sự thất vọng đến cùng cực đau khổ của Vũ Nương khi bị nghi oan là "hư thân" và bị dồn tới đường cùng phải lấy cái chết để minh oan cho chính mình. Trong đoạn đối thoại của Vũ Nương khi bị chồng nghi oan, ta có thể thấy được tấm lòng thuỷ chung, đức hạnh, nết na của nàng. Dù bị Trương Sinh nghi ngờ, mắng nhiếc, đánh đuổi thế nhưng mỗi lời nàng nói ra để phân trần đều rất chân thành, dịu dàng, không hề một lời oán thán, trách cứ người chồng đa nghi bội bạc. Nhưng qua lời nói của nàng, ta cũng thấy được hình ảnh của một người phụ nữ nhất mực dịu dàng nhưng cũng vô cùng trọng danh dự, quyết lấy cái chết để minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình. Đó là những đức tính mang giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến đương thời.

Sau khi Vũ Nương trầm mình xuống Hoàng Giang, nàng đã được Đức Linh Phi cứu sống và trong cơ duyên, nàng gặp Phan Lang - một người cùng làng với mình. Khi nghe những lời Phan Lang nói nơi thuỷ cung, Vũ Nương đã động lòng. Bởi trong thâm tâm của nàng, nàng vẫn son sắt một lòng hướng về gia đình và quê cũ. Nàng luôn mong mỏi được tìm về, được minh oan, điều đó đã chứng minh cho một người phụ nữ với tính cách thuỷ chung, sắt son, luôn coi trọng danh dự, phẩm chất của mình: "Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Vả chăng ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất có người tìm về".

Đoạn đối thoại cuối cùng của Vũ Nương là khi nàng trở về sau khi được giải oan ở bến Hoàng Giang: "Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa". Câu nói này đã cho thấy được cách sống vô cùng tình nghĩa của Vũ Nương. Nàng nợ ơn cứu mạng của Đức Linh Phi và luôn mang điều đó trong lòng, vậy nên nàng lựa chọn ở lại thuỷ cung cho trọn lời thề đã nói. Còn với Trương Sinh - kẻ đã gây nên mọi đau khổ của cuộc đời nàng, đáng lẽ ra nàng phải hận người đàn ông bội bạc ấy, thế nhưng Vũ Nương lại sẵn sàng tha thứ cho hắn, thậm chí còn "đa tạ" tình cảm của hắn nữa. Vậy mới thấy Vũ Nương là một người phụ nữ luôn sống tình nghĩa, biết ơn ân nhân của mình và giàu sự vị tha.

Thông qua những đoạn đối thoại của nhân vật Vũ Nương, ta có thể thấy được vẻ đẹp truyền thống của những người phụ nữ Việt Nam như thuỷ chung, dịu hiền, trọng danh dự, sống tính nghĩa và giàu sự vị tha. Thế nhưng số phận của nàng lại vô cùng thương tâm, đau khổ, bị nghi oan đến mức phải dùng cái chết của mình để chứng minh sự trong sạch. Vũ Nương chính là đại diện tiêu biểu cho số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Và câu chuyện Chuyện người con gái Nam Xương sẽ luôn là một trong những tác phẩm trung đại về người phụ nữ hay và chân thực nhất!

 

2. Phân tích lời thoại của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu số 2:

Qua lời nói của một người, ta có thể đánh giá rất nhiều về phẩm chất, tính cách người đó. Điều này cũng được áp dụng trong văn học, ở những lời thoại mà tác giả trao cho nhân vật. Nguyễn Dữ đã rất thành công về khía cạnh này khi khắc họa nên một nàng Vũ Nương nết na, hiền hậu, chung thủy, trọng tình nghĩa chỉ với một vài đoạn thoại ngắn ngủi trong “Chuyện người con gái Nam Xương”. 

Ngay từ đầu tác phẩm, ta đã được giới thiệu về nàng Vũ Thị Thiết với tính tình “thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Ấy vậy, nàng lại lấy người chồng “con nhà hào phú nhưng ít học”, “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Chính điều này đã làm nên bi kịch của người phụ nữ đức hạnh, nết na kia. 

Khi Trương Sinh phải đi tòng quân xa, Vũ Nương rót chén rượu đầy, ngậm ngùi nói những lời chân thành để tiễn chồng. Nàng chẳng mong chồng “đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về”. Ước muốn duy nhất của nàng chính là một ngày chồng nàng bình yên quay lại đoàn tụ với gia đình. Nàng bày tỏ nỗi nhớ nhung da diết cùng tấm lòng thủy chung, son sắt với người chồng thân yêu: “Nhìn trăng soi thành cũ … cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Chỉ qua vài dòng ngắn ngủi, Nguyễn Dữ đã thành công lột tả được những đức tính đáng quý của người phụ nữ xưa trong xã hội phong kiến. Ở nàng Vũ Nương hội tụ đủ công - dung - ngôn - hạnh, là hình mẫu chuẩn mực lúc bấy giờ. 

Đến đoạn thoại tiếp theo, Vũ Nương đã bị đặt trong một tình thế vô cùng ngặt nghèo. Chồng nàng đi lính trở về. Ngỡ tưởng gia đình đoàn tụ, cuộc sống sẽ ấm êm, yên bình như xưa. Nhưng chỉ vì một lời nói ngây thơ của con nhỏ, Trương Sinh không chút nghi ngờ vu cho vợ tội thất tiết. Cái oan tày đình đổ xuống đầu người phụ nữ tội nghiệp khiến nàng chỉ biết khóc mà thanh minh. Vũ Nương ý thức được thân phận mình là “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, cũng bày tỏ lòng thủy chung với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”, chỉ mong chồng đừng một mực nghi oan cho mình. Nhưng Trương Sinh không chịu nghe bất cứ lời nào, đến họ hàng làng xóm bênh vực nàng hắn cũng chẳng để tâm. Quá bất đắc dĩ, nàng đau đớn mà rằng: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng … đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Nàng chạy ra bến Hoàng Giang, ngẩng mặt lên trời than về số phận hẩm hiu của mình. Những lời nàng nói ra đã thể hiện sự tuyệt vọng, đau đớn khôn nguôi của một người phụ nữ bị chồng coi là thất tiết. Nàng thà gieo mình xuống sông tự vẫn chứ không muốn mang cái danh “lừa chồng dối con”. Dù bị chồng mắng nhiếc, xua đuổi, tất cả những lời nàng nói không hề có một câu oán trách Trương Sinh.  Qua đây, ta thấy được Vũ Nương vô cùng trọng danh dự. Đồng thời, cũng rất bao dung với người chồng đầu ấp tay gối. 

Sau khi gieo mình xuống sông và được Linh Phi cứu giúp, Vũ Nương tình cờ gặp lại Phan Lang - một người cùng làng. Khi này, nàng đã có cơ hội bộc bạch nỗi lòng sau sự oan khuất tày trời kia. Nàng bày tỏ sự biết ơn với Linh Phi, cũng đồng thời tiếc thương cho phận mình, thà ở lại chốn thủy cung chứ không muốn trở về mà bị chồng ruồng rẫy. Thế nhưng khi nghe lời khuyên của Phan Lang, nàng lại quả quyết muốn minh oan, lấy lại sự trong sạch của mình. Sự quyết tâm thể hiện qua câu thoại: “Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi … tôi tất phải tìm về có ngày”. Điều này càng khẳng định hơn tấm lòng chính trực cùng khát vọng muốn được minh oan của nàng. 

Câu thoại cuối cùng của Vũ Nương được cất lên ở bến Hoàng Giang, sau khi Trương Sinh đã lập đàn giải oan cho nàng. Tuy nhiên, nàng không chọn về bên chồng con mà quyết định ở lại thủy cung để báo đáp Linh Phi. Qua đó, ta thấy nàng là người rất trọng ơn nghĩa, sống có trước có sau. Nhưng đồng thời, ta cũng thấy được tình cảm cùng sự bao dung, độ lượng nàng dành cho chồng. Trương Sinh nghi oan cho nàng, đẩy nàng vào đường cùng, phải gieo mình xuống sông tự vẫn. Ấy vậy nhưng Vũ Nương vẫn chẳng một lời oán trách. Tấm lòng vị tha của nàng quả thật vô cùng đáng trân trọng. 

Nhìn chung, số lượng lời thoại của Vũ Nương trong tác phẩm không phải quá nhiều, nhưng đã góp phần thể hiện rõ nét hơn những phẩm chất tốt đẹp mà người phụ nữ ấy có. Nàng thủy chung, yêu thương và bao dung với chồng con, cũng rất coi trọng danh dự, đề cao ơn nghĩa. Tất cả những điều đó đã làm nên hình tượng đáng quý của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Đồng thời, thể hiện sự lên án, tố cáo chế độ nam quyền khi xưa đã đẩy người phụ nữ vào bi kịch. Qua đây, ta lại càng thêm trân trọng và ngưỡng mộ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ.

Xem thêm nhiều Phân tích lời thoại của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương hay khác tại đây. 

----------------HẾT-----------------

Để tìm hiểu rõ hơn, chi tiết và sâu sắc hơn tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương cũng như số phận của nàng Vũ Nương xinh đẹp, nết na, mời các bạn cùng tham khảo thêm các bài viết phân tích khác về tác phẩm này như: Cảm nhận về bi kịch của nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, Thuyết minh về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương, Phân tích nhân vật Trương Sinh trong Chuyện người con gái Nam Xương.

Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm viết về người phụ nữ rất đặc sắc trong văn học trung đại Việt Nam. Thông qua bài viết Phân tích lời thoại của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, các em có thể hiểu hơn về số phận cũng như những phẩm chất cao đẹp, truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa.
Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương hay
Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương
Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong những hoàn cảnh nào
Phân tích vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương
Ý nghĩa cái bóng trong Chuyện người con gái Nam xương
Đoạn văn phân tích vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương

ĐỌC NHIỀU