Đề bài: Thuyết minh về một món ăn đặc sản
Thuyết minh về một món ăn đặc sản
Mỗi mảnh đất, mỗi địa danh trên đất nước ta đều có những món ăn độc đáo, được xem là đặc sản của mỗi vùng miền. Nếu Hà Nội được biết đến với món bún chả nướng, cốm làng Vòng, Hải Dương gắn liền với món bánh đậu xanh truyền thống, nhớ đến Sài Gòn người ta nhớ đến món bánh tráng trộn cay cay chua chua thì nhắc đến Thanh Hóa mọi người không thể nào quên được món nem chua. Nem chua Thanh Hóa đã trở thành nét đặc trưng tiêu biểu khi nhắc tới mảnh đất xứ Thanh.
Có thể thấy, món nem chua xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước ta như nem chua Hà Nội, nem chua Quảng Ninh, nem chua Huế,... nhưng có lẽ nổi tiếng và đậm vị hơn cả chính là nem chua Thanh Hóa. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, những người dân ở mảnh đất Thanh Hóa vẫn không biết chính xác món nem chua có từ bao giờ và nguồn gốc của nó ra làm sao. Những người dân nơi đây chỉ biết rằng nem chua đã trở thành món ăn không thể thiếu và đã đi vào tiềm thức của họ từ ngàn đời nay. Mặc dù không bất cứ ai có thể biết rõ thời điểm ra đời cũng như nguồn gốc của món ăn này, nhưng những năm 60, 70 của thế kỉ trước, ở nơi đây đã xuất hiện những cơ sở sản xuất nem chua đầu tiên và cũng kể từ thời điểm này, món nem chua Thanh Hóa trở thành một loại hàng hóa trên thị trường.
Cũng như những món ăn khác, nem chua Thanh Hóa cũng có những đặc điểm, những đặc trưng rất riêng, không trộn lẫn với bất cứ món ăn nào. Nem chua Thanh Hóa thường có dạng hình trụ, chỉ lớn hơn ngón tay trỏ của người trưởng thành và được gói trong những chiếc lá chuối xanh, đồng thời được buộc dây chun theo hình chữ thập. Bên trong lớp vỏ lá chuối chính là ruột của chiếc nem với màu hồng tươi ngon của thịt xen lẫn với những lát tỏi cắt mỏng, những miếng ớt đỏ tươi và cả những chiếc lá đinh lăng, lá rau răm. Hương vị của nem chua Thanh Hóa rất đặc trưng, có vị chua chua của thịt đã ướp, vị thơm của lá rau răm cùng lá đinh lăng, vị cay cay, nồng nồng của ớt và tỏi. Tất cả những hương vị ấy đã quyện hòa vào nhau làm nên cái vị, cái hương độc đáo của món nem chua.
Nhìn có vẻ đơn giản, song để làm nên được nem chua thì không phải là công việc dễ dàng và đơn giản. Để làm ra món nem chua, trước hết, người làm nem phải chuẩn bị những nguyên liệu cần thiết cho món ăn này. Đầu tiên không thể thiếu đó chính là lá chuối để gói nem. Lá chuối thường được lựa chọn đó chính là lá chuối ngự, vì nó vừa xanh, vừa dày, đảm bảo trong quá trình vận chuyển hay lưu giữ nem vẫn có thể lên men. Cùng với đó cũng cần chuẩn bị chun để buộc chặt những chiếc nem sau khi đã được gói. Thêm vào đó, cũng cần chuẩn bị, tỏi, ớt và cắt chúng thành miếng mỏng, lá đinh lăng và rau răm cũng được nhặt sạch và cắt nhỏ. Đặc biệt, nguyên liệu chính để làm nên món nem chua Thanh Hóa đó chính là thịt lợn nạc và bì lợn. Thịt và bì lợn phải được chọn là loại thịt còn tươi, nhất là loại thịt được chọn ngay khi mổ lợn, sau đó được đưa đi xay nhuyễn. Ngoài ra, để làm món nem chua cũng cần chuẩn bị các gia vị khác như tiêu, đường, muối, thính gạo,... Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ các nguyên liệu, người ta bắt đầu tiến hành bắt tay vào trộn và gói nem. Người làm nem sẽ mang thịt lợn nạc, bì lợn đã được xay nhuyễn cùng tiêu, cùng các gia vị khác như thính gạo, muối, đường trộn lẫn vào nhau. Sau khi đã trộn lẫn các nguyên liệu, sẽ đến công đoạn gói nem, phần hỗn hợp trên sẽ được gói thành những thỏi nem nhỏ cùng với vài lá đinh lăng, lá rau răm, vài lát tỏi và vài miếng ớt ở trong một miếng ni lông mỏng, trong suốt cho kín, sau đó bọc tiếp bên ngoài hai lớp lá chuối và được cố định lại bằng một sợi dây chun buộc theo hình chữ thập. Nem gói xong sẽ được ủ để lên men, quá trình này sẽ làm nem chín và có thể mang ra sử dụng. Tùy vào từng mùa mà thời gian ủ nem có thể khác nhau, vào những ngày mùa hè, nhiệt độ lên cao, nem có thể ủ từ 6 đến 8 tiếng, nhưng vào những ngày mùa đông, do thời tiết lạnh, nhiệt độ xuống thấp nên thời gian ủ nem thường kéo dài từ 18 đến 24 tiếng. Thêm vào đó, mỗi gia đình, mỗi cơ sở sản xuất nem lại có những quá trình trộn và ủ riêng để tạo nên những hương vị khác nhau.
Nem chua Thanh Hóa là một món ăn phổ biến và được nhiều người biết đến. Với mức giá giao động từ 3000 đến 5000 đồng một chiếc, nem chua Thanh Hóa đang trở thành một mặt hàng được nhiều người yêu mến, ưa thích trên thị trường. Với những hương vị độc đáo, đây là món ăn được nhiều người yêu thích trong những bữa cơm hằng ngày và nhất là mỗi dịp Tết đến xuân về. Cùng với đó, nem chua Thanh Hóa cũng đã và đang trở thành món quà cho bạn bè, người thân mỗi dịp chúng ta về với mảnh đất nơi đây.
Tóm lại, nem chua Thanh Hóa là một trong số những món ăn nổi tiếng ở Thanh Hóa nói riêng, ở trên đất nước ta nói chung. Nem chua Thanh Hóa với hương vị độc đáo khiến người ta dẫu chỉ nếm thử một lần cũng sẽ không thể nào quên.
Nem chua Thanh Hóa là món ăn đặc sản của vùng đất xứ Thanh
Hà Nội, mảnh đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến, người ta đã tìm thấy ở nó biết bao những vẻ đẹp tuyệt vời và kỳ bí, một Hà Nội với lịch sử vẻ vang anh hùng chưa từng thất thủ trong bất kỳ cuộc chiến nào, một Hà Nội đế kinh muôn đời, hay một Hà Nội cổ kính rêu phong, lưu giữ nhiều nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt bao đời. Hà Nội mang trong mình nhiều sự xưa tích cũ, cũng là nơi dừng chân tuyệt vời đối với nhiều du khách cả trong và ngoài nước, và dĩ nhiên rằng níu kéo được con người Hà Nội không chỉ mặn mà với những vẻ đẹp lịch sử hay sự phát triển mạnh mẽ thời hiện đại mà quan trọng rằng thủ đô của ta có một nền ẩm thực vô cùng phong phú và đa dạng. Thạch Lam đã khen rằng "Quà Hà Nội xưa nay vẫn nổi tiếng ngon lành và lịch sự", 36 phố phường mỗi nơi lại có riêng cho mình những bí truyền ẩm thực, lấy làm cái lợi thế riêng để tồn tại hàng trăm năm. Người ta thường nhắc đến Hà Nội với món cốm xanh của các cô gái làng Vòng, nhưng càng nhắc nhiều hơn đến món phở Hà Nội một món ăn đã trở thành "linh hồn", tinh hoa trong làng ẩm thực Việt.
Trong những bài viết về những thức quà vặt ngon nghẻ của Hà Nội, không phải ngẫu nhiên mà Thạch Lam viết một lần, rồi lại bổ sung thêm một lần nữa về món phở cổ truyền, chỉ bởi đơn giản rằng ông nghĩ đã là món thú vị bậc nhất đất kinh đô, thì nào có thể nói trong vài ba trang chữ. Trong số ấy tôi quả thực ấn tượng nhất với một nhận định của ông rằng "Phở là thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ ở riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon". Quả thực chẳng có gì để mà không tin tưởng lời Thạch Lam, bởi vốn dĩ tôi chưa đi nhiều nơi, chưa ăn qua nhiều thức quà, thế nhưng cũng không ít lần nếm được món phở, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, hoặc các tỉnh Tây Nguyên và may mắn nhất tôi đã được nếm cả phở Hà Nội. Và phải công nhận rằng phở ở những nơi khác dù có mang danh người Hà Nội làm thì cũng vĩnh viễn không có được cái ngon ngọt chính tông như ở đất kinh đô, có lẽ là do thủy thổ, hoặc do người bán phở đã xa quê hương quá lâu nên tay nghề cũng mất đôi chút, hoặc là họ ẩu, nghĩ rằng dân xứ khác ít sành như người Hà Nội chăng? Phở là món ăn truyền thống và lâu đời của dân tộc và cũng chẳng ai biết chính xác nó có từ bao giờ do ai kỳ công chế tạo nên hay chỉ đơn giản là một sự kết hợp tình cờ khi người ta định nấu bún mà vô tình làm ra phở thì tôi cũng chẳng biết. Chỉ biết rằng cái món phở thân yêu ấy đã theo từng gánh hàng rong và tỏa hương khắp phố phường Hà Nội vào cái thế kỷ 18, 19 và trở thành kế sinh nhai chính của một cơ số những con người biết nấu và nấu giỏi. Đồng thời cũng trở thành thức quà ưa thích của tất cả các hạng người trong thành phố từ các anh công chức, thợ thuyền, đến các bà các mẹ hay đi chợ, các cô các cậu đi học, trở thành món ăn chính đáng không thể thiếu của nhiều người. Điều đó chứng tỏ phở là một món bình dân và ngon tuyệt nên người ta mới yêu chiều như thế. Cách đây một thế kỷ, phở bán gánh là một đặc sản một nét văn hóa của người Hà Nội, nhưng dần dà khách đông hơn, đặc biệt là qua hai cuộc chiến những người hay gánh phở đi bán cũng biệt tăm biệt tích, đến khi hòa bình, đất nước lập lại, thì phở không còn được gánh trên vai những anh, những chị mà trở thành món được bán hẳn trong hàng trong quán. Thực khách quên đi cái cảnh ngồi xổm xì xụp húp miếng nước lèo nóng và nay được ngồi trên ghế trên bàn biết bao thoải mái để tận tình thưởng thức. Tuy nhiên phở gánh và phở tiệm ít nhiều cũng có những cái thú, cái vị khác biệt, mà khác ở đâu thì chỉ những con người đã từng trải qua cả hai kiểu ấy mới hiểu, ví như Thạch Lam hay Tô Hoài, những con người rành rọt về băm sáu phố phường Hà Nội chẳng hạn.
Một bát phở ngon cũng như một vị chuyên gia vậy, chính là mang trong mình nó lắm yêu cầu khắt khe. Nước dùng hay còn gọi là nước lèo giống như linh hồn của bát phở phải thực trong và ngọt, cái ngọt ấy phải được chiết ra từ xương ống của heo của bò chứ không phải từ thứ gia vị mà ngày nay người ta vẫn thường quảng cáo "ngon từ thịt ngọt từ xương". Những bát phở mà ngọt kiểu ấy ăn được dăm miếng thì đã thấy vị mì chính lên tận óc, chẳng lấy gì làm ngon, và tiệm ấy chắc cũng sớm mất khách, nếu ở Hà Nội. Thêm nữa là bánh phở, tức là cái sợi trông như sợi mì Quảng (ai ăn mì Quảng thì có lẽ không lạ lẫm gì), phải trắng, dẻo mềm và không bị nát, tóp mỡ phải giòn thơm chứ không dai cứng. Đồng thời những thứ gia vị như vài giọt chanh gắt, ớt cay, hành tây và chút rau thơm tươi thì không bao giờ được thiếu. Ngoài ra còn có chỗ người ta thêm một chút hồ tiêu Bắc, vài giọt cà cuống để phở được đậm vị và dậy mùi hơn. Phở truyền thống thì ắt phải có thịt bò, người ta có nhiều cát ăn, người thích tái, kẻ thích nạm, kẻ thích ăn xương thịt, có người lại ưng nửa nạc nửa mỡ, người ưng ăn ba chỉ,... Nói chung tùy khẩu vị mà người bán phở đáp ứng cho thực khách. Và trong quá trình phát triển cả hàng thế kỷ của mình, phở ta cũng không phải không có chút biến đổi, thứ mà ta hay gọi là phở "cải lương", ví như người ta làm phở gà, phở tôm, phở heo,... hoặc có người rụt rè hơn tí thì chỉ thêm một vài vị rau thơm mà xưa nay không có ví như thêm hành lá, húng lìu, húng chó, rau giá, ... hoặc mạnh dạn thêm tí gia vị vào nước dùng tỉ như dầu vừng, hoặc một món ăn kèm thêm no như đậu phụ trắng. Nhưng thường những cái "cải lương" nó kém được hoan nghênh hơn, người Hà Nội sành ăn và ưa truyền thống, cũng như bản thân chúng ta giờ thấy áo dài "cách tân" thì đâm ra ngứa mắt vậy. Nhưng có lẽ những món phở mới mẻ ấy lại có chỗ phát triển nếu đi ngược vào phương Nam.
Về cách làm, thú thực nếu không có một bí quyết gia truyền, một người thầy chỉ dạy tận tình thì có lẽ khó có ai có thể nấu ra được một bát phở ngon đúng nghĩa. Với vai trò chỉ là người thưởng thức và nghe lỏm được đôi câu chuyện nấu phở, thì tôi chỉ biết được rằng người ta đã phải nấu một nồi nước dùng vừa trong vừa ngọt như thế trong vòng 8-9 tiếng gì đó, với nguyên liệu chính là xương ống bò, được chế cùng với một loạt các loại gia vị như hồi, quế, thảo quả, gừng, sá sùng, hành tây, hành củ,... mà tôi nghe tên thì vị nào cũng là một vị thuốc cả. Với lại nước dùng phở nó kỳ công còn ở cả công đoạn sắp đặt gia vị, không phải người ta cứ thế đổ cả xương, cả nguyên phụ liệu vào mà nấu lên 10 tiếng, mà trước hết những thứ gia vị kia cũng phải được sơ chế bằng cách nướng lên nữa cơ. Tôi không hiểu nguyên do nhưng có lẽ là để cho gia vị được thơm hơn, đồng thời loại bỏ đi một số hương vị không cần thiết chẳng hạn hoặc sâu xa hơn nữa thì có lẽ là cách nướng ấy nó để cho mấy thứ dược liệu này có một công dụng nào đó hữu ích hơn trong bát phở chăng. Sau khi ninh đủ 10 tiếng, cốt ngọt từ xương đã đi vào nước dùng, người ta lại lọc lại một lần, để chắt được cái thứ nước trong và màu đẹp, chuẩn bị sẵn sàng phục vụ thực khách. Còn về "bánh phở", thứ tôi vẫn gọi là sợi phở ấy, người ta làm cũng kỳ công, phải lựa chọn được thứ bột gạo trắng, nhào bột rồi ủ bột thật kỹ, sau đó cắt bánh phở thật khéo, để bánh phở không bị nát, khi gắp lên thấy sợ phở mượt, trắng ngần, ăn vào thì dai mềm đó mới đúng là tuyệt vời. Khi thực khách gọi món, người nấu nhanh chóng sắp bánh phở ngay ngắn vào một cái tô lớn, sạch sẽ, lại sắp hành tây, thịt thà lên trên, rồi múc lấy thứ nước đang sôi sùng sục trong nồi đổ vừa ngập bánh phở, rồi nhanh tay bốc lấy chút ngò gai bỏ lên trên mặt, sau đó bưng ra cho thực khách. Những thứ gia vị khác như chanh, ớt, tiêu, tương, cà cuống, rau thơm,... người nấu bây giờ cũng biết thông minh không cưỡng chế bỏ vào bát phở như xưa nữa mà để người ăn tự túc lựa chọn có bỏ vào hay không. Tôi thấy thế lại hay, thực khách sẽ không bao giờ phải nhăn mặt khó chịu vì không thích vị chua chanh hay một thứ gia vị nào vô tình được nhà hàng bỏ vào để bát phở được "tròn" vị.
Phở ngày nay đã đi khắp mọi miền đất nước, từ Bắc Trung Nam, đến đâu người ta cũng có thể ăn được phở, nhưng nếu muốn ăn phở Hà Nội thì chỉ có về Hà Nội, chọn đúng hàng quán thì mới có cơ hội được bát phở ngon lành, đậm đà. Có thể nói rằng phở đã mang đến cho nền ẩm thực đến từ lúa gạo của Việt Nam ta một điểm nhấn rất đặc sắc và riêng biệt, chẳng thế mà người ngoại quốc khi đến nước ta, họ không chỉ nhớ về bánh mì mà còn nhớ khôn nguôi một món có tên "phở". Phở Việt Nam ngày càng trở nên nổi tiếng cả trong và ngoài nước, đồng thời cũng là một món ăn phổ biến của dân tộc ta bao đời, trở thành một nét văn hóa ẩm thực đặc sắc, đáng nhớ, đáng thử nhất ở đất Hà Thành này.
Phở Hà Nội mang hương vị đặc biệt của ẩm thực đất Bắc
"Anh về nơi xứ Quảng thăm người em phố Hội.
Sông Thu Bồn con nước lững lờ trôi.
Đường chùa Cầu mưa buồn giăng ngập lối.
Rừng thông xanh mưa thấm ướt bờ môi"
Nhắc đến miền đất Quảng Nam, người ta không chỉ nhớ đến mảnh đất từng một thời anh hùng trong chiến đấu, mảnh đất của bạt ngàn những rừng keo xanh mướt, nhớ đến một Hội An cổ kính rực rỡ đèn lồng, là chỗ dừng chân lý thú của nhiều du khách trong và nước. Mà người ta còn nhớ lắm Quảng Nam với một nền ẩm thực đặc sắc và đậm đà tình cảm giống hệt những con người nơi đây. Nếu như Hà Nội có phở, có cốm, Huế có cơm hến, bún bò, thì Quảng Nam cũng không thua kém với bánh tráng cuốn thịt heo và mì quảng. Trong đó tôi vẫn ấn tượng nhất với vùng đất Đà Nẵng - Quảng Nam ở món mì Quảng này, sợi gần như phở, nhưng hương vị thì quả thực khác xa.
Có thể nói rằng mì Quảng chính là linh hồn của ẩm thực xứ Quảng, người ta đến với vùng đất này thì khó có thể bỏ qua một món ăn có nhiều thanh sắc vị, lại rất bình dân thân thiện này được. Không ai biết được rằng mì Quảng đã bắt đầu trở thành một món ăn hấp dẫn và bầu bạn với những người con miền Trung từ thuở nào, chỉ có một số tài liệu còn chép lại thì có mì Quảng bắt nguồn từ sự giao thoa văn hóa Việt - Trung. Trung Quốc vốn là một đất nước có nền ẩm thực phong phú, đặc biệt là với các nguyên liệu từ lúa gạo người ta có thể biến tấu ra hàng trăm món khác nhau, mà các món mì lại càng chiếm ưu thế. Khi người Trung Quốc vào thành phố Hội An bởi các công việc giao thương, họ đã mang sang cả một chút ẩm thực dân tộc, mà người Việt ta thì chẳng bao giờ thôi không sáng tạo. Từ món mì truyền thống của họ ta cũng làm món mì của ta, nhưng hương sắc vị thì lại khác hẳn, ngon và hợp khẩu vị của dân tộc mình và sau nhiều đời thêm bớt, phát triển, ngày nay ta đã có một món ăn thật đặc sắc và đáng để nghiên cứu thưởng thức.
Tôi đã ăn mì Quảng nhiều lần, dường như nó đã từng một thời trở thành bữa ăn sáng nề nếp. Cái hương vị nồng nàn ấy cho dù đến sau này tôi hiếm còn có dịp ăn lại nữa thì vẫn khó mà có thể quên được. Một bát mì Quảng ngon, cũng giống như một bát phở ngon vậy, hai thứ quan trọng là nước lèo và sợi mì thì nhất thiết phải chỉn chu và kỹ lưỡng. Nước lèo phải có màu vàng nâu, óng ánh mỡ, vị hòa quyện của tôm, thịt ba chỉ và trứng cút nấu chung, nếm vào phải thấy hơi mặn, độ ngọt vừa phải, thêm một chút cay cay của ớt đỏ là ổn. Còn sợi mì bắt buộc phải trắng ngần, mỡ màng và sáng, không bị đứt gãy nhiều hay nát và cũng không dính chặt vào nhau. Bên cạnh hai thứ chính như vậy thì mì Quảng cổ truyền nhất thiết phải có thịt heo và trứng cút làm chủ, thêm vào đó là các gia vị phụ liệu mà tương truyền phải có đủ chín vị thì mới ngon bao gồm: Húng quế, xà lách tươi, rau cải non, giá đỗ, ngò rí, rau răm, hành hoa thái nhỏ, bụp chuối lát mỏng. Ngoài ra người nấu còn bày sẵn ớt, chanh và nước mắm để thực khách có thể thêm vào nếu thích. Ngày nay mì Quảng đã có nhiều biến thể để phục vụ nhu cầu của khách tứ xứ, mà thứ thay đổi chủ yếu chính là phần thịt trong mì Quảng, người ta có thể đổi thịt heo thành thịt gà, thịt ếch, tôm, cá lóc và thậm chí là cả thịt bò cho thêm phần phong phú. Đồng thời bớt đi một số món rau ăn kèm. Không giống như phở Hà Nội cái sự "cải lương" này của mì Quảng lại dễ khiến người dân nơi đây thích ứng và chào đón nhiệt liệt, hệt như cái cách mà họ đón khách từ tứ xứ tới làm ăn vậy.
Về cách làm thú thực mì Quảng là một món khá dễ chế biến, không quá cầu kỳ như khi nấu phở, nấu bún nhưng để có được một tô mì Quảng ngon lành thì người nấu ắt phải lành nghề và có nhiều kinh nghiệm nêm nếm nước lèo. Muốn nấu ngon thì công đoạn chọn nguyên liệu phải thật kỹ càng, sườn non chọn loại ngon, sụn không quá cứng hoặc quá mềm, chặt nhỏ, đem ướp bằng các gia vị như hành tím băm nhỏ, muối, ớt, tiêu, mì chính, nước mắm ngon, nước màu trong vòng 20 phút. Tôm chọn loại cỡ vừa sơ chế, rút chỉ đất ở lưng rồi ướp tương tự như sườn non. Sau khi ướp cho lên bếp xào cho thịt thăn lại, rồi chế thêm một ít nước, nấu sôi, sao cho sườn vừa chín tới, nước lèo đậm đà là được. Tôm được xào sau, khi vừa chín thì đổ chung với nồi thịt và trộn đều. Ngoài ra người ta còn luộc trứng cút, bóc vỏ sẵn sau đó khi nồi thịt tôm gần được thì cho vào, để món mì Quảng thêm đậm đà. Với sợi mì Quảng, thường các hàng quán sẽ đặt làm số lượng lớn ở các cơ sở chuyên sản xuất. Sợi mì được làm bằng bột gạo tẻ, khi tráng bánh và cắt sợi người ta còn thêm một ít dầu vừng, dầu lạc để sợi mì được mượt và đỡ dính lại thơm. Khi thực khách gọi món, người bán sẽ nhanh chóng xếp rau sống vào một cái bát to, sau đó xếp mì quảng lên trên, múc vào một ít thịt, tôm tùy thích, rồi chan nước lèo chồng lên. Lưu ý rằng mì Quảng không phải là các món bún phở thông thường lúc nào cũng phải xăm xắp nước, mà mì Quảng chỉ cần một chút nước lót đáy cho thêm đậm đà. Sau khi chan nước lèo, người bán thêm chút đậu phộng rang giòn cho dậy mùi, một chút bánh phồng tôm hoặc bánh đa, để làm cho món ăn thêm phong phú, dồi dào hơn.
Có thể nói rằng mì Quảng không hẳn gọi là cao lương mĩ vị, cũng không phải món cần người sành ăn thưởng thức, mà nó thực sự là một món ăn dân dã và gần gũi với cộng đồng vô cùng. Ai cũng có thể ăn được nó như thế dần dà nó đã đi vào nếp sống của người dân miền trung như một người bạn đậm đà và thân mến. Trở thành một nét văn hóa đặc sắc trong ẩm thực Đà Nẵng - Quảng Nam. Nói là mì Quảng nhưng thực tế đến Đà Nẵng ta thậm chí còn ăn được nhiều món mì Quảng ngon tuyệt vời hơn cả quê hương của nó nữa.
Việt Nam có nhiều loại bánh trở thành đặc sản riêng của từng vùng miền. Nếu nhắc đến Huế người ta nghĩ ngay đến những gói mè xửng thơm ngon, nhắc đến Hà Tĩnh thì nói về kẹo Cu đơ giòn, béo ngậy thì nhắc đến Sóc Trăng không thể quên được món bánh Pía đặc sản. Nhiều người khắp nơi biết đến, truyền tai nhau ca ngợi hương vị độc đáo của bánh Pía Sóc Trăng.
Bánh Pía vồn có nguồn gốc xuất xứ từ Triều Châu, Trung Quốc, ban đầu chúng là những chiếc bánh trung thu đơn giản. Vào những năm của thế kỉ XVII, bánh được mang theo di cư sang nước ta từ những người Minh Hương.
Bánh Pía được cấu tạo gồm hai phần: phần nhân bánh bên trong và phần vỏ bánh bên ngoài. Bánh có hình vuông tròn, vỏ bánh màu vàng chanh, nhân bánh có thể màu xanh hoặc vàng, tùy thuộc vào nguyên liệu để làm nên nó. Bánh thường được gói trong các túi ni lông, những bao bì của các nhà sản xuất bánh kẹo được thiết kế riêng. Trên bao bì thường in tên và địa chỉ sản xuất bánh.
Để làm được một chiếc bánh Pía ngon và đảm bảo chất lượng, giàu dinh dưỡng không thể thiếu những nguyên liệu như bột mì, sầu riêng, khoai môn, trứng vịt muối, đậu xanh. Khi đã chuẩn bị nguyên liệu đầy đủ, người thợ bước vào công đoạn làm bánh. Trước tiên cần rửa sạch đậu xanh, khoai môn, mang chúng bỏ vào nồi rồi đem hấp. Khi đậu xanh và khoai môn đã chín thì vớt ra, tán thật nhuyễn. Khi xong, đem chúng xào với nhân sầu riêng và đường, đảo đều với tỉ lệ phù hợp. Khi hỗn hợp đã chín thì tắt bếp, để nguội. Sau đó, người thợ làm bánh tiến hành bọc hỗn hợp nhân vừa làm được vào từng lòng đỏ hột vịt muối. Nếu người thưởng thức muốn tăng độ béo cho bánh có thể thêm thịt heo vào nhân bánh. Bánh Pía Sóc Trăng chay cũng làm tương tự nhưng thay vì nhân thịt hay hột vịt muối thì người ta chỉ dùng nhân đậu xanh hoặc sầu riêng, khoai môn mà thôi.
Khi phần nhân bánh đã hoàn thành, người thợ tiếp tục cán bột, cuộn bột để làm vỏ bọc nhân bánh. Nhân bánh phải qua hai lần bọc, lần thứ nhất là bộc bột nước, lần thứ hai là bọc bột dầu vừa tạo độ phồng cho bánh vừa bảo vệ nhân bánh bên trong. Khâu cuối của quá trình làm bánh là cho bánh vào lò nướng. Đây là khâu quan trọng vì nếu để nhiệt độ không phù hợp hoặc nướng bánh quá lâu sẽ khiến chất lượng bánh giảm. Vì vậy khi nướng bánh cần cẩn thận, điều chỉnh nhiệt độ phù hợp. Thành phẩm hoàn thành phải đảm bảo đẹp về hình thức và ngon về nội dung. Bánh phải có vị đậm đà của trứng muối, vị thơm của sầu riêng, vị thanh thanh của đậu vàng cùng với béo ngậy của khoai, của bột và vị ngọt ngào mang đậm dấu ấn con người Sóc Trăng.
Những chiếc bánh Pía nhỏ xinh có thể ăn riêng hoặc ăn kèm với trà đều được. Vị bánh ngon, dễ ăn, dẻo, mềm và thơm vô cùng. Bánh không tan trong miệng ngay lần đầu chạm lưỡi mà từ từ thấm dần giúp người thưởng thức cảm nhận hết thứ hương vị tuyệt vời của nó.
Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại bánh Pía Sóc Trăng được bày bán. Để phục hợp với sở thích của từng người, các nhà sản xuất luôn chú trọng trong việc làm đa dạng nhiều loại nhân như bánh pía nhân thập cảm, bánh pía nhân thịt, bánh pía nhân đậu xanh,.... Giá cả của một gói bánh Pía không quá cao, trung bình từ 60 nghìn đồng đến 70 nghìn đồng 1 gói 500 gram. Bánh có thể giữ được từ 2 đến 3 tháng kể từ ngày sản xuất mà không cần chất bảo quản. Điều đó rất tốt, mang lại sự an tâm cho người tiêu dùng khi lựa chọn loại bánh này.
Là đặc sản Sóc Trăng cùng với thương hiệu bánh Pía nổi tiếng, nhiều nơi trên cả nước đã nhập loại bánh này để bán. Tại các siêu thị, hay những cửa hàng bách hoá, không khó để tìm thấy bánh Pía Sóc Trăng được chủ cửa hàng bày bán.
Bánh Pía Sóc Trăng có một hương vị độc đáo riêng mà không một loại bánh nào có thể thay thế được. Đây là món ẩm thực được người Sóc Trăng tự hào mỗi khi nhắc đến. Bởi thế mà ai đã từng về vùng miền Tây sông nước cũ không quên ghé vùng đất này, mua vài ba gói bánh Pía về làm quà. Cả người bán và người mua đều nhận được điều gì đó thật gần gũi mà trân quý biết bao.
Bánh Pía là đặc sản của vùng đất Sóc Trăng
Hải Phòng - thành phố của những đóa hoa phượng đỏ rực rỡ, của những cảng biển tấp nập thuyền bè qua lại. Người Hải Phòng nổi tiếng hào sảng, với tính cách dễ thương, trìu mến. Về góc độ văn hóa, Hải Phòng là một trong những thành phố với những cảng biển lâu đời, nên nền văn hóa chứa đựng những đặc sắc văn hóa từ nhiều vùng miền khác nhau. Nhắc về nền ẩm thực, Hải Phòng nổi tiếng với những món hải sản tươi ngon, đầy ấn tượng. Và một trong số đó là món bún tôm, món ăn mà thực khách không chỉ bị hấp dẫn bởi hương vị mà còn bị hấp dẫn bởi những nguyên liệu và cách chế biến độc đáo nữa.
Bún tôm - món đặc sản của người Hải Phòng, cũng như nem cua bể hay bánh đa cua, đã xuất hiện và lưu truyền từ bao đời nay ở đất cảng này. Không ai biết bún tôm là do ai sáng tạo nên, người ta chỉ thấy nó xuất hiện như một điều tự nhiên, một thứ văn hóa ăn sâu vào trong suy nghĩ của mỗi con người nơi đây. Có lẽ xa xưa, khi những người dân Hải Phòng với vùng biển giàu có, đã đặc biệt sáng tạo ra món ăn này để làm mới hương vị bữa ăn hàng ngày. Cứ như thế, bún tôm đã dần trở thành một nét văn hóa phi vật thể, một đặc sản khó quên mà ai đến Hải Phòng cũng mong mỏi được nếm thử.
Món bún tôm nghe có đơn giản về nguyên liệu thế nhưng để làm nên hương vị một tô bún tôm thơm ngon, đúng điệu lại là sự tập hợp của đa dạng những loại nguyên liệu khác nhau, mà quan trọng nhất là hải sản tươi sống.
Khác với các loại bún khác, bún trong món bún tôm được chọn là loại bún sợi to, tròn, như loại bún được sử dụng trong món bún riêu cua mà ta thường hay nấu. Đôi khi, để tạo nên nét mới, đổi vị, người ta sử dụng bánh đa cua hay bánh đa đỏ - thứ bánh đa đặc trưng của người Hải Phòng để chế biến món bún tôm như một cách thay đổi khẩu vị thường ngày. Về hải sản, người ta thường chọn tôm là thứ hải sản chính để chế biến, ngoài ra, họ cũng có thể chế biến thay đổi các loại khác như mực, cua hay bề bề. Với một vùng đất đa dạng về hải sản tươi ngon như Hải Phòng thì một tô bún tôm hay bún hải sản cũng có thể làm ấm lòng ngay cả những thực khách khó tính nhất.
Về nguyên liệu tôm, loại tôm mà thường được người dân ở đây lựa chọn khi chế biến món bún tôm đó là tôm sú hoặc tôm giảo. Hai loại tôm này không chỉ luôn tươi ngon mà còn cho một lượng thịt lớn, ngon ngọt hơn so với các loại tôm khác.
Về nước dùng, người ta tạo nên nước dùng món bún tôm bằng sườn hoặc xương ống lợn ninh kĩ, thêm nước được chế biến từ tôm, tạo nên một vị béo ngậy thơm ngon, nức lòng du khách.
Người Hải Phòng không như các vùng khác, đối với các món bún hoặc bánh đa, họ thường dùng chung với các loại rau sống như xà lách, rau thơm, húng, ... được thái nhỏ để ăn cùng. Các món rau này không chỉ cho tô bún một vị thanh đạm mà còn khiến món ăn thêm dậy mùi kích thích tất cả các giác quan của người thưởng thức.
Về cách chế biến món bún tôm, người Hải Phòng có hai cách thức để chế biến món đặc sản này, một cách chế biến truyền thống mà người Hải Phòng chính gốc hay sử dụng còn một cách là sự biến tấu cho món bún tôm thêm màu sắc và thơm ngon hơn.
Với cách chế biến thứ nhất, rất phổ biến, người ta chọn mua nguyên liệu chính là những con tôm từ những chợ hải sản lớn nhất của Hải Phòng. Tôm được chọn phải còn sống, tươi ngon, đầy đặn. Sau đó, nó được rửa sạch rồi luộc lên để lấy nước dùng. Xương ống của lợn được chọn từ chợ, ninh thật kĩ trong khoảng thời gian đủ lâu để nước có đủ vị ngọt, béo và thơm. Sau đó, ta trộn hai loại nước này, nêm nếm cho vừa miệng là đã có được nước dùng món bún tôm đặc sản rồi.
Tôm sau khi luộc lên lấy nước thì được vớt ra, để ráo sau đó bóc vỏ cho thật sạch. Có một lưu ý nhỏ khi bóc vỏ tôm đó là phải để tôm thật nguội, khi bóc vỏ mới không làm trầy thịt tôm, không bị nát thịt tôm. Bóc xong vỏ, ta bỏ thịt tôm ra bát rồi phi hành khô thật vàng, cho thịt tôm đã bóc vỏ vào đảo, cho thêm một chút nước mắm để tôm có thêm mùi thơm. Sau khi thấy thịt tôm săn lại, rắn chắc vàng đều thì tắt bếp rồi đổ ra bát.
Bún được mua về, chần qua nước nóng rồi múc ra bát, bày biện tôm lên phía trên, thêm một chút rau răm, thì là, hành lá nữa, múc thêm một bát nước dùng còn đang nóng hổi rưới thật đều lên bát bún. Vậy là ta đã có được một tô bún tôm đặc sản đậm chất của người Hải Phòng rồi. Ăn kèm cùng với một phần rau sống đã được thái nhỏ, thì thật đúng là tuyệt vời, đặc biệt là trong một ngày mùa đông lạnh giá.
Cách chế biến này khá đơn giản, được nhiều người Hải Phòng chọn lựa làm cách chế biến món bún tôm ăn trong gia đình. Còn cách chế biến thứ hai là sự biến tấu của cách chế biến thứ nhất, tuy cầu kì, thế nhưng lại mang tới những hương vị độc đáo, riêng biệt cho món bún tôm của người Hải Phòng.
Vẫn với các nguyên liệu chính như cách chế biến đầu, thế nhưng, ở cách chế biến này, người ta còn lựa thêm cà chua, thêm mộc nhĩ, nấm hương, một chút rau cần và thịt ba chỉ. Nước dùng ở cách chế biến thứ hai này cũng công phu và cầu kì hơn cách chế biến trước.
Cũng vẫn là những con tôm tươi ngon, đã được lựa chọn kĩ càng, người ta đem bóc vỏ, bỏ đầu, rút sợi chỉ đen ở thân tôm, còn phần thịt tôm được để riêng ra bát. Sau đó, phần vỏ tôm và đầu tôm được đem đi rang lên thật giòn, bỏ vào cối, giã tầm năm phút rồi đổ một lượng nước vừa phải lọc từ từ và bỏ phần bã đi. Cách lọc này giống với khi chúng ta làm cua trong món bún riêu.
Về phần rau cần, chúng được nhặt sạch, rửa kĩ rồi cắt khúc tầm hai đốt ngón tay. Một chút thịt ba chỉ được thái mỏng, to bản, ướp cùng một chút mắm muối cho đậm đà, mộc nhĩ, nấm hương được ngâm nở, thái nhỏ. Vậy là đã cơ bản xong phần chuẩn bị nguyên liệu, chúng ta cùng bước vào giai đoạn chế biến.
Cũng giống như cách chế biến trước, phần thịt tôm cũng được xào lên cho săn tôm lại thì đổ ra, giữ trong bát tô. Thịt ba chỉ cũng được đảo qua chảo hai ba phút cho chín rồi bỏ thêm nấm hương, mộc nhĩ vào đảo cùng, sau đó cho phần thịt tôm đã đảo vào xào lên cùng. Cà chua được phi hành thơm, đảo cho nhừ rồi cho vào chung với nồi nước ninh xương cùng nước tôm lọc đã được nấu sôi, nêm nếm cho vừa miệng. Cà chua vừa có vị thanh chua, vừa tạo nên màu sắc thật bắt mắt cho món bún tôm. Vậy là đã có được một nồi nước dùng cho món bún tôm ngon rồi!
Rau cần và bún được chần qua nước sôi, để ráo, sau đó được xếp vào tô theo thứ tự bún, rau cần, tôm và thịt ở phía trên, rắc thêm một chút hành lá, rau răm, thì là đã cắt nhỏ, rồi rưới thêm một tô nước dùng thơm ngon là ta đã có một tô bún tôm cực kì đặc sắc rồi.
Phải nói, bún tôm không chỉ đậm đà vị ngon ngọt đặc trưng của xương ninh, mà còn thơm mùi tôm, của thứ hải sản tươi sống cùng với rau và các gia vị khác nữa. Bất cứ ai khi đến Hải Phòng cũng đều luôn mang trong mình niềm yêu thích với các món ăn đặc sản nơi đây mà đặc biệt là món bún tôm này. Một tô bún tôm như là một bức tranh đồng quê đặc sắc với màu đỏ của cà chua, màu xanh của rau và màu vàng cam của những chú tôm thơm ngọt. Về Hải Phòng, người ta không chỉ bắt gặp những quán xá lộng lẫy mà còn bắt gặp những quán ăn đậm chất bình dân với chỉ vài chiếc bàn ghế nhựa kê gọn trên hè phố, một tấm biển treo, chỉ cần thế nhưng cái hương vị thì không đâu có thể sánh bằng.
Những người dân Hải Phòng luôn luôn tự hào về nền văn hóa ẩm thực của mình. Mỗi thực khách đến với Hải Phòng đều không thể nào quên được những tô bún tôm, bánh đa cua hay bánh mì cay, ... cùng với tấm lòng tràn đầy thân thiện và yêu mến của người dân nơi đây. Mỗi du khách qua thành phố cảng này đều lưu luyến những nét văn hóa, nét ẩm thực nơi đây mà chẳng muốn trở về.
----------------------------------HẾT--------------------------------------------
Từ Nam ra Bắc, mỗi vùng miền chúng ta lại có những món ăn đặc sản đặc trưng cho ẩm thực, văn hóa của vùng đất ấy. Bên cạnh những món ăn đặc sản, các em có thể tìm hiểu sự phong phú của nền ẩm thực, văn hóa truyền thống dân tộc qua các bài: Thuyết minh về một trò chơi dân gian,Thuyết minh về một món ăn, Thuyết minh về một lễ hội truyền thống dân tộc,Thuyết minh về ngày tết cổ truyền ở Việt Nam mà chúng tôi đã tuyển chọn và đăng tải.