Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ, Ngữ văn lớp 10, Kết nối tri thức với cuộc sống

Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ, Ngữ văn lớp 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống

Soạn ngữ văn 10 Kết nối tri thức với cuộc sống


I. Trả lời câu hỏi

1. Bài viết tham khảo cảm nhận và phân tích bài thơ "Mùa xuân xanh" (Nguyễn Bính) vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ. Cách cảm nhận và phân tích đó có những ưu thế gì nổi bật?
* Trả lời:
- Cách cảm nhận và phân tích vừa theo hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ trong bài viết tham khảo cảm nhận và phân tích bài thơ "Mùa xuân xanh" (Nguyễn Bính) vừa khai thác một cách có hệ thống các hình ảnh thơ vừa khám phá chi tiết ngôn ngữ thơ. Từ đó nắm bắt được mạch cảm xúc và tư tưởng, chủ đề của toàn bộ tác phẩm.
2. Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là gì?
* Trả lời
Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, việc phân tích chủ đề thực chất là phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình (nhân vật trữ tình muốn biểu đạt điều gì, thông qua hình tượng nào, với cái nhìn và thái độ ra sao,...).
3. Người viết đã đánh giá bài thơ như thế nào? Nêu nhận xét khái quát về tính thuyết phục của đánh giá đó.
* Trả lời
- Người viết đánh giá bài thơ "Mùa xuân xanh" là "bài thơ của niềm vui sống, của sự chan hòa giữa con người với tạo vật, là khúc dạo đầu của tình yêu lứa đôi."
- Nhận xét: Đánh giá đó rất thuyết phục vì:
+ Đánh giá trên được đặt ở cuối bài thể hiện cái nhìn tổng quát cũng như tóm lược lại toàn bộ nội dung đã phân tích ở trên.
+ Đánh giá này được đúc kết thông qua việc phân tích mạch triển khai hệ thống hình ảnh, biện pháp nghệ thuật được sử dụng và liên hệ, so sánh với thơ truyền thống để làm rõ những nét mới mẻ của bài thơ.


II. Thực hành viết

Bài làm tham khảo
Đề bài: Phân tích đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ "Mùa xuân chín" (Hàn Mặc Tử).
1. Dàn ý chi tiết
a) Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.
b) Thân bài
b1) Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình
- Nhan đề bài thơ: gợi ra sự căng tràn, tròn đầy của mùa xuân.
- Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
b2) Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của những phương tiện ngôn ngữ đã được sử dụng
* Khung cảnh mùa xuân:
- Thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống:
+ Hình ảnh thơ gợi hình gợi cảm: "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang", "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời".
+ Biện pháp tu từ: Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "bóng xuân sang". Đảo ngữ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc" với từ láy "sột soạt" để miêu tả âm thanh của gió thổi tình tứ, trêu đùa tà áo biếc.
+ Nhịp thơ: có sự thay đổi linh hoạt. => Gợi mở không gian.
+ Gieo vần: "vàng" - "sang", "trời" - "chơi" => Không gian rộng lớn.
=> Ngôn từ của bài thơ gợi lên khung cảnh của một mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, rực rỡ và căng tràn sức sống.
- Con người đang độ tuổi xuân rực rỡ:
+ Hình ảnh thơ giàu sức gợi: "đám xuân xanh", "tiếng ca vắt vẻo", "khách xa", "chị ấy".
+ Biện pháp tu từ:
Nhân hóa "tiếng ca" - "vắt vẻo", "hổn hển"
So sánh "tiếng ca" - "lời của nước mây"
+ Nhịp thơ cũng có sự thay đổi để phù hợp với tâm trạng nuối tiếc của nhân vật trữ tình.
=> Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng ca trong trẻo, ngây thơ.
* Tâm trạng của nhân vật trữ tình:
- Câu hỏi tu từ: "- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?"
- Gieo vần "làng" - "chang chang" bày tỏ sự vang vọng trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình.
- Hệ thống từ láy: "Hổn hển", "thầm thĩ", "chang chang", "bâng khuâng".
=> Thể hiện nỗi nhớ quê, khát khao giao cảm với người, với đời.
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác cùng đề tài, chủ đề, thể loại
- So sánh với bài thơ "Mùa xuân xanh" của Nguyễn Bính để thấy được nét độc đáo, hấp dẫn .
c) Kết bài
- Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ.

Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ, Ngữ văn lớp 10, Kết nối tri thức với cuộc sống

2. Viết bài
Nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận xét: "Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình". Ông đã để lại cho hậu thế rất nhiều bài thơ đặc sắc cất lên từ tiếng nói đau thương của một số phận bất hạnh với những hình ảnh gắn liền với "trăng" và "máu" đầy ám ảnh. Nhưng trong tác phẩm "Mùa xuân chín" lại là bức tranh thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống, thể hiện tình yêu thiên nhiên, khát khao giao cảm với đời, với người của nhà thơ Hàn Mặc Tử được bộc lộ thông qua những nét đặc sắc nghệ thuật.
Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra vẻ đẹp mùa xuân rực rỡ, tròn đầy. Động từ trạng thái "chín" kết hợp với danh từ "mùa xuân" gợi ra liên tưởng về mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, tràn đầy sức sống nhất. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự tiếc nuối của thi nhân trước cảnh đẹp đang dần trôi qua, không thể tồn tại vĩnh viễn. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
Mạch thơ được triển khai thông qua hệ thống hình ảnh, các biện pháp tu từ, sự phối hợp nhịp và vần trong toàn bộ bài thơ. Nhân vật trữ tình vừa hòa mình vào thiên nhiên, nâng niu, trân trọng vẻ đẹp bình dị tràn đầy sức sống của tạo vật lại vừa có những giây phút thoát li khỏi thực tại để trắc ẩn, ưu tư. Giọng điệu của bài thơ vì thế khi thì tha thiết, say sưa khi thì bị ngưng lại, tạo ra sự lắng đọng trong cảm xúc.
Nhìn vào toàn bài thơ, có thể dễ dàng nhận thấy được hình ảnh thiên nhiên và hình ảnh con người mà nhà thơ đã khéo léo miêu tả. Ý niệm "mùa xuân" được thể hiện thông qua các hình ảnh thơ giàu sức gợi: "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang", "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời". Hình ảnh "làn nắng ửng" gợi ra sắc nắng vàng nhạt tạo cảm giác trong trẻo, tươi mới chứ không phải cái nắng chói chang, gay gắt của mùa hè. Trong khi đó, "khói mơ tan"có thể là khói phát ra từ những căn bếp trong buổi sáng sớm hoặc cũng có thể là làn sương khói tinh mơ kết hợp với "làn nắng ửng" tạo cảm giác khói đang dần tan biến để nhường chỗ cho nắng mới lên. Dưới nắng ửng, đôi mái nhà tranh "lấm tấm vàng" để lại ấn tượng và cảm xúc về sáng sớm mùa xuân ở vùng quê đầy thơ mộng cũng như sự yên bình, thư thái trong tâm hồn. Biện pháp đảo ngữ "sột soạt gió trêu tà áo biếc" và từ láy "sột soạt" vừa diễn tả được âm thanh của gió vừa nhấn mạnh được vào sự tình tứ, trêu đùa của làn gió khiến cho tà áo biếc bay bay. Câu thơ " Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang" đã được tác giả sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác và dùng dấu "." để ngăn cách giữa "giàn thiên lý" với "bóng xuân sang" nhằm tạo nhịp điệu cho thơ cũng như nhấn mạnh vào dấu ấn của mùa xuân. Nhịp thơ 2/2/3 được chuyển sang nhịp 4/3 và cách gieo vần "vàng" - "sang", "trời" - "chơi" cho thấy được không gian rộng lớn của mùa xuân. Bức tranh mùa xuân không chỉ có màu vàng nhạt của nắng, màu xanh lục ánh vàng của thiên lí, màu biếc của tà áo mà còn xuất hiện cả màu xanh tươi của "sóng cỏ". Câu thơ "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời" vừa gợi ra được màu xanh của cỏ, vừa gợi được trạng thái căng tràn và sự vận động nhẹ nhàng theo gió xuân của làn cỏ khiến mùa xuân ngập tràn khắp không gian. Làn cỏ xanh đang dập dờn trong gió xuân tạo ra cảm giác thư thái, nhẹ nhàng trong tâm hồn.
Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên, ta còn thấy được sự xuất hiện của hình ảnh con người thông qua các từ ngữ khơi gợi: "bao cô thôn nữ", "đám xuân xanh", "tiếng ca vắt vẻo", "hổn hển", "thầm thì", "ngồi dưới trúc", "khách xa", "chị ấy". Hình ảnh "bao cô thôn nữ hát trên đồi" vừa bao hàm được số lượng lại vừa chỉ ra được đối tượng, hành động lẫn địa điểm cụ thể. Hình ảnh "đám xuân xanh" mang hàm ý chỉ những cô gái đang trong độ tuổi xuân thì, là độ tuổi trẻ đẹp nhất của cuộc đời người phụ nữ. Trong câu thơ "- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi" có sự thay đổi về cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3 khiến cho cảm xúc bị chùng xuống. Dấu gạch ngang đầu câu khiến cho câu thơ giống như một lời nói nhằm bộc lộ sắc thái tiếc nuối tuổi xuân thì của người con gái ngay khi đang ở trong mùa xuân. "Tiếng ca" được nhân hóa "vắt vẻo" "hổn hển" và được so sánh với "lời của nước mây" đã cho thấy được vẻ đẹp và sự ngân vang của tiếng hát đang lan tỏa, hòa mình cùng với thiên nhiên mùa xuân. Tiếng hát ấy được miêu tả thông qua từ láy "vắt vẻo", "hổn hển", "thầm thĩ" tạo ra âm thanh trầm bổng khác nhau, lúc thì dồn dập, gấp gáp, lúc thì nhỏ nhẹ, thiết tha. Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng ca trong trẻo, ngây thơ.
Khác với sự vui tươi, rực rỡ tràn ngập của mùa xuân, khổ thơ cuối đã có sự chùng xuống về mặt cảm xúc của nhân vật trữ tình - "khách xa". "Khách xa" nhìn cô thôn nữ và cảnh tượng "mùa xuân chín" bỗng "bâng khuâng sực nhớ làng". "Khách xa" ở đây có thể hiểu là người khách từ phương xa đang nhìn về cảnh vật mà lòng nhớ đến làng, nhớ đến quê hương nhưng cũng có thể hiểu là chính tác giả đang diễn tả hoàn cảnh của mình. Hai chữ "bâng khuâng" diễn tả được cảm xúc lâng lâng buồn xen lẫn chút tiếc nuối ngẩn ngơ của nhân vật trữ tình trước cảnh đẹp thiên nhiên và cuộc sống. Nhưng động từ mạnh "sực" khiến ta cảm giác về sự bất chợt, ngay tức khắc ở thời điểm đó cho thấy nỗi nhớ làng dâng trào, tràn ngập trong suy nghĩ, tâm tưởng của thi nhân. Tương tự với câu trên, câu hỏi tu từ "- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?" dấu gạch ngang khiến cho câu thơ giống như một lời nói. Đó là câu hỏi của "khách xa" hay chính là nhân vật trữ tình khi nhìn mùa lúa chín và tự hỏi bản thân liệu năm nay "chị ấy có còn gánh thóc dọc bờ sông". Cách gieo vần "làng" -"sang" gợi ra sự vang vọng trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình. Nó cho thấy sự bâng khuâng trong tâm trạng và nỗi niềm nhớ làng, nhớ quê hương của "khách xa".
Nếu như "Mùa xuân xanh" của Nguyễn Bính thể hiện một bức tranh thiên nhiên tươi tắn, hồn hậu, làm toát lên sức sống phơi phới của vạn vật lúc xuân về và cả nét chất phác "chân quê" để bày tỏ tình cảm với người con gái thì "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử lại diễn tả bức tranh mùa xuân ngập tràn sức sống, tròn đầy, rực rỡ nhất từ đó thể hiện tiếc nuối và mặc cảm thân phận của tâm hồn thi nhân trước cuộc sống. Hình ảnh trong thơ Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều gắn liền với các hình ảnh vùng quê. Nhưng điều tạo nên khác biệt của "Mùa xuân chín" chính là cách sử dụng ngôn ngữ giàu sức gợi, khắc họa nên một bức tranh xuân sống động, ở độ "chín", tràn đầy sức sống nhất.

Bằng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, hệ thống từ láy giàu sức gợi hình, gợi cảm cùng cách ngắt nhịp, gieo vần phá cách, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh sống động với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên, con người trong mùa xuân. Đồng thời, thể hiện khát khao được giao cảm với đời, với người của một hồn thơ "điên" đang mang trọng bệnh nhưng vẫn luôn hướng về cuộc sống.

Nắm chắc các bước, kĩ năng làm bài sẽ giúp các em chiếm lĩnh và làm chủ tri thức. Chúc các em đạt điểm cao trong học tập và ngày càng tiến bộ trong quá trình học văn! Đừng quên trên Taimienphi.vn còn rất nhiều bài soạn và bài văn mẫu lớp 10 hay nhé!
- Soạn bài Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ, Ngữ văn lớp 10, Kết nối tri thức với cuộc sống
- Soạn bài Củng cố, mở rộng bài 2, Ngữ văn lớp 10, Kết nối tri thức với cuộc sống

Từ những văn bản đã được học trong bài 2 - Vẻ đẹp của thơ ca, các em sẽ tiến hành Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ, Ngữ văn 10, Kết nối tri thức. Nếu cảm thấy khó khăn khi soạn bài, em có thể tham khảo bài viết mẫu dưới đây.
Link tải Sách giáo khoa lớp 4 Kết nối tri thức PDF
Giải bài tập trang 65 SGK Toán 3 Tập 2, sách Kết nối tri thức với cuộc sống
Giải Toán lớp 7 sách Kết nối tri thức với cuộc sống
Giải bài tập trang 95 SGK Toán 3 Tập 1, sách Kết nối tri thức với cuộc sống
Giải bài tập trang 91, 92 SGK Toán 3 Tập 1, sách Kết nối tri thức với cuộc sống
Giải bài tập trang 30, 31, 32, 33, 34 SGK Toán 3 Tập 2, sách Kết nối tri thức với cuộc sống

ĐỌC NHIỀU