Soạn bài Đoàn thuyền đánh cá

Mục Lục bài viết:
1. Bài soạn số 1
2. Bài soạn số 2


Soạn bài Đoàn thuyền đánh cá, ngắn 1

Bố cục:

- Phần 1 (hai khổ thơ đầu): Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
- Phần 2 (bốn khổ thơ tiếp theo): Cảnh đoàn thuyền đánh cá giăng lưới đánh bắt cá ngoài khơi xa, vẻ đẹp của thiên nhiên biển cả.
- Phần 3 (khổ thơ cuối): Cảnh đoàn thuyền đánh cá quay trở về sau chuyến đi.

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:
a. Bố cục bài thơ: gồm 3 đoạn
- Đoạn 1: Hai khổ thơ đầu là cảnh đoàn thuyền đánh cá lên đường và tâm trạng náo nức của con người.
- Đoạn 2: Bốn khổ thơ tiếp theo là cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
- Đoạn 3. Còn lại là cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh.

b. Không gian và thời gian miêu tả trong bài thơ:
- Trong bài thơ có hai cảm hứng bao trùm và thống nhất hòa quyện chặt chẽ: cảm hứng về lao động và cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ.
Công việc lao động của người đánh cá giữa thiên nhiên bao la của biển và trời như đã gắn liền, hải hòa với nhịp sống của thiên nhiên đất trời: "Thuyền ta lái gió với buồm trăng – Lướt giữa mây cao với biển bằng:, "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao", " Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời"… Có thể nói hai cảm hứng – về thiên nhiên vũ trụ và lao động – đã tạo cho hình ảnh đòan thuyền đánh cá qua cái nhìn của nhà thơ trở nên lớn lao, kì vĩ, bay bổng.
- Bằng biện pháo nhân hóa, tác giả đã gợi tả hình ảnh coun thuyền lướt giữa gió trăng lồng lộng
- Bằng biện pháp liệt kê so sánh, tác giá đã miêu tả các loại cá thể hiện sự giàu đẹp và vô tận của biển

Câu 3: Phân tích một số hình ảnh đẹp tráng lệ:
Cảnh biển vào đêm vừa rộng lớn vừa gần gũi với con người:
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa"
Nhà thơ so sánh mặt trời như một hòn lửa đang từ từ lặn xuống biển. Trời biển có sự giao hòa trọn vẹn. Mặt biển mênh mông, mát mẻ kia sẽ làm cho "Hòn lửa" mặt trời dịu êm đi. Nhà thơ đã liên tưởng vũ trụ là một ngôi nhà lớn, có màn đêm là cánh cửa khổng lồ, những con sóng là then cửa cài chặt cánh cửa đêm đen. Vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian.

Câu 4:
Bài thơ có bốn từ "Hát". Cả bài như một khúc ca, ngợi ca lao động, với tinh thần làm chủ, với niềm vui phơi phới mà nhà thơ viết thay cho những người lao động. Lời thơ dõng dạc giọng điệu như khúc hát mê say hào hứng, cách gieo vần biến hóa linh hoạt. Vần trắc xen lẫn vần bằng, vần liền xen lẫn vần cách. Vần trắc tạo nên sức dội, sức mạnh. Vần bằng tạo nên sự vang xa, bay bổng… tất cả góp phần làm nên âm hưởng của bài thơ vừa khỏe khoắn sôi nổi, vừa phơi phới bay bổng.

Câu 5:
Nhận xét về cái nhìn và cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên, đất nước và con người lao động
Nhà thơ Huy Cận có cái nhìn tươi mới và cảm xúc hào hứng, tràn đầy niềm vui về cuộc sống. Thiên nhiên tráng lệ, giàu có là nguồn tài nguyên vô tận luôn phục vụ con người, tham gia tích cực vào cuộc sống. Con người hăng hái say mê lao động làm chủ cuộc sống, xây dựng cuộc sống mới. Chính nhà thơ đã viết "Không khí lúc này thật vui, cuộc đời phấn khởi, nhà thơ cũng rất phấn khởi. Cả một vùng than, vùng biển đang hăng say lao động từ bình minh cho đến hoàng hôn và cả từ hoàng hôn cho đến bình minh". Đây là một cái nhìn tin tưởng và phấn khởi của nhà thơ trước cuộc đời mới. Cái nhìn ấy, cảm xúc ấy là kết quả của quá trình đi thực tế dài ngày tại vùng mở Quảng Ninh. Bắt đầu từ đây hồn thơ Huy Cận này nở trở lại trong niềm vui say cuộc sống mới.

Luyện tập

Câu 1 (trang 142 SGK): Đoạn văn phân tích khổ thơ đầu hoặc khổ thơ cuối của bài thơ.

Khổ thơ đầu
Khổ thơ đầu là bức tranh về đoàn thuyền đánh cá lúc giăng buồm ra khơi. Hai câu thơ đầu của khổ thơ miêu tả không gian, thời gian trong thời điểm ấy. "Mặt trời xuống biển như hòn lửa", không gian bước vào buổi chiều tà, lúc hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Thời gian tiến dần về đêm, bóng đêm bao phủ cả không gian ở câu thơ thứ hai "sóng đã cài then, đêm sập cửa". Tác giả miêu tả không gian, thời gian trong cái nhìn nhân hóa, mọi sự vật hiện tượng hiện lên sinh động, có hồn, như những sinh thể mang sự sống đang đắm mình vào màn đêm của thiên nhiên. Hai câu thơ sau miêu tả hình ảnh đoàn thuyền ra khơi. Tiếng hát của những con người lao động hòa vào với gió của đất trời, thổi căng cánh buồm của sự sống, của niềm hăng say lao động . Tác giả Huy Cận đã sử dụng hình ảnh rất độc đáo "câu hát căng buồm cùng gió khơi". Câu hát được sử dụng như một phép hoán dụ, đó là hình ảnh của những người dân lao động hăng say với công việc, là tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên của họ. Khổ thơ đầu không chỉ là bức tranh đoàn thuyền đánh cá ra khơi mà còn thể hiện sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên đất nước.

Khổ thơ cuối
Nếu khổ thơ đầu là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá căng buồm ra khơi thì khổ thơ cuối khắc họa hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về sau chuyến đi. Hình ảnh "câu hát căng buồm với gió khơi" được lặp lại, lột tả vẻ đẹp của tinh thần lao động trong sự hòa hợp với thiên nhiên biển cả. Cánh buồm no gió là biểu tượng cho tinh thần hăng say lao động, cho một chuyến hành trình tốt đẹp. Mặt trời đã bắt đầu ló dạng, hình ảnh mặt trời ló lên từ rạng đông được nhân hóa thành hành động "chạy đua". Mặt trời như đang cùng đoàn thuyền chạy đua trên chuyến hành trình trở về đất liền. Ở hai câu thơ sau, không gian thiên nhiên mở ra đầy ánh nắng, lấp lánh tuyệt đẹp. Mặt trời càng lên cao, như đội biển, phủ ánh sáng ấm áp khắp không gian. Hình ảnh mặt biển lấp lánh ánh nắng được tác giả khắc họa trong câu thơ cuối "mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi", thiên nhiên đất nước đã hiện lên thật đẹp, đầy sức sống, hòa vào cùng bức tranh lao động của con người, tạo nên những xúc cảm thẩm mĩ đặc sắc. Thiên nhiên ấy như nâng đỡ hành trình trở về của đoàn thuyền đánh cá sau chuyến đánh bắt xa khơi.

Ý nghĩa - Nhận xét
- Qua bài thơ, học sinh cảm nhận được vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên, sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, từ đó thấy được niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
- Học sinh phân tích được những sáng tạo nghệ thuật của tác giả Huy Cận: hình ảnh giàu liên tưởng, tưởng tượng, mang âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan.
 

Soạn bài Đoàn thuyền đánh cá, ngắn 2

Câu 1:
- Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá.
+ Hai khổ đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người.
+ Bốn khổ tiếp theo: là cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá giữa khung cảnh biển trời ban đêm.
+ Khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên.
- Với bố cục như trên, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã tạo ra một khung cảnh không gian và thời gian rất đáng chú ý: không gian rộng lớn bao la với mặt trời, biển, trăng, sao, mây, gió; thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bình minh, cũng là thời gian của một chuyến ra biển rồi trở về của đoàn thuyền đánh cá: mặt trời xuống biển, cả trời đất vào đêm, trăng lên cao, đêm thở, sao lùa… rồi sao mờ, mặt trời đội biển nhô lên trong một ngày mới. Điểm nhịp thời gian cho công việc của đoàn thuyền đánh cá là nhịp tuần hoàn của thiên nhiên, vũ trụ.

Câu 2:
- Hình ảnh người lao động và công việc của họ, ở đây là đoàn thuyền đánh cá, được đặt cả vào không gian rộng lớn của biển trời, trăng sao, để làm tăng thêm kích thước, tầm vóc và vị thế của con người. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp phóng đại cùng với những liên tưởng mạnh bạo, bất ngờ để sáng tạo hình ảnh về người lao động:
+ Câu hát căng buồm cùng gió khơi
+ Thuyền ta lái gió với buồm trăng.
Lướt giữa mây cao với biển bằng.
+ Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
- Sự hài hòa giữa con người lao động và thiên nhiên, vũ trụ còn thể hiện ở sự nhịp nhàng giữa nhịp điệu vận hành của thiên nhiên, vũ trụ và trình tự của công việc lao động của đoàn thuyền đánh cá. Khi mặt trời xuống biển, vũ trụ vào đêm cũng là lúc khởi đầu một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, và đây là công việc diễn ra thường xuyên, đều đặn như một nhịp sống đã quen thuộc: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”. Con thuyền ra khơi có gió làm lái, trăng làm buồm, gõ thuyền đuổi cá vào lưới cũng theo nhịp trăng, sao. Đến lúc sao mờ, tức là đêm sắp tàn thì cũng là lúc kéo lưới kịp trời sáng. Bình minh lên, mặt trời đội biển cũng là lúc đoàn thuyền trở về, tuy nặng khoang cá đầy mà vẫn lướt đi phơi phới chạy đua cùng mặt trời.
- Hình ảnh người lao động trong bài thơ được sáng tạo với cảm hứng lãng mạn, thể hiện niềm tin, niềm vui trước cuộc sống mới. Cảm hứng lãng mạn ấy cũng thấm đẫm trong những hình ảnh về thiên nhiên, vũ trụ, tạo nên vẻ đẹp tráng lệ, phóng khoáng mà vẫn gần gũi với con người.

Câu 3:
a. Cảnh biển vào đêm
Cảnh vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người do một liên tưởng so sánh thú vị của nhà thơ:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng là then cửa.
Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà thật từ sự gắn kết ba sự vật và hiện tượng : cánh buồm, gió khơi và câu hát của người đánh cá “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như đã có một sức mạnh vật chất để cùng với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi.

b. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển
Cảm hứng lãng mạn đã giúp cho tác giả phát hiện những vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng,
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ: lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng, dò bụng biển, dàn đan thế trận…

- Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
- Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.

Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên.
c. Hình ảnh đẹp lộng lẫy và rực rỡ của các loài cá trên biển:

- Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
- Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
- Vẩy nạc đuôi vàng lóe rạng đông.
- Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Những hình ảnh này có vẻ đẹp của tranh sơn mài lung linh, huyền ảo, được sáng tạo bằng liên tưởng, tưởng tượng bay bổng từ sự quan sát hiện thực.

Câu 4: Bài thơ có nhiều từ “hát”, cả bài cũng như một khúc ca. Đây là khúc ca lao động, do tác giả hóa thân vào người lao động để thể hiện. Bài thơ tạo được âm hưởng vừa khỏe khoắn, sôi nổi lại vừa phơi phới, bay bổng. Góp phần tạo nên âm hưởng ấy là các yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần,… Lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hào hứng, phơi phới. Đặc biệt cách gieo vần có nhiều biến hóa linh hoạt, các vần trắc xen lẫn vần bằng, vần liền xen với vần cách. Các vần trắc tạo sức dội, sức mạnh, các vần bằng tạo sự vang xa, bay bổng.

Câu 5: Những bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài thơ thể hiện cái nhìn cuộc sống tươi vui, cảm xúc say sưa, hào hứng của tác giả trước thiên nhiên, đất nước và con người lao động.
 

----------------------HẾT-----------------------

Xem tiếp các bài soạn để học tốt môn Ngữ Văn lớp 9

Soạn bài Tổng kết về từ vựng, tiếp theo, bài 11
Soạn bài Đồng Chí

Với những gợi ý chi tiết, soạn bài Đoàn thuyền đánh cá sẽ giúp các em trả lời chính xác những câu hỏi đọc hiểu trong sách giáo khoa, qua đó cảm nhận được không khí lao động hăng say, hứng khởi của người lao động trong công cuộc lao động xây dựng cuộc sống mới.
Phân tích khổ 2 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận siêu hay tuyển chọn
Dàn ý đặc sắc nghệ thuật trong khổ thơ đầu và cuối bài Đoàn thuyền đánh cá
Soạn bài Tập đọc: Đoàn thuyền đánh cá trang 59 SGK Tiếng Việt 4 tập 2
Đóng vai ngư dân kể lại bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Kết bài bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Cảm nhận của em về đoạn thơ 3, 4, 5, 6 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

ĐỌC NHIỀU