Đề bài: Giới thiệu một sản phẩm, một trò chơi mang bản sắc Việt Nam
5 bài văn mẫu Giới thiệu một sản phẩm, một trò chơi mang bản sắc Việt Nam
Việt Nam là một vùng quê của những truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa. Trong suốt quá trình phát triển của một nghìn năm lịch sử, trong đời sống sinh hoạt lâu đời của người dân, không chỉ những phong tục tập quán, những bản sắc văn hóa mang dấu ấn của Việt Nam được hình thành mà những trò chơi dân gian cũng vô cùng phong phú và độc đáo, những trò chơi này cũng góp phần thể hiện được những nét đẹp về văn hóa cũng như những nét đẹp về tinh thần, tâm hồn của con người Việt Nam. Một trong những trò chơi dân gian tiêu biểu mà ta có thể kể đến, đó chính là trò chơi thả diều.
Thả diều là một trò chơi dân gian độc đáo của con người Việt Nam, trò chơi này được hình thành trong quá trình sinh hoạt và lao động của người Việt Nam. Xuất hiện từ rất sớm và trò chơi độc đáo này vẫn được duy trì và phát triển cho đến tận ngày hôm nay. Khi xưa, cùng với nhịp độ của cuộc sống sinh hoạt thường ngày, ông cha ta không chỉ lo lao động, làm ăn sinh sống mà còn rất chú trọng đến đời sống tinh thần của mình, mà cụ thể nhất có thể kể đến, đó chính là sự sáng tạo các trò chơi dân gian, một trong số đó là thả diều. Đây là cách thức giải trí độc đáo của ông cha ta sau mỗi giờ lao động đầy mệt mỏi, là cách lấy lại sức lực sau những lo toan của cuộc sống, của áp lực cơm - áo - gạo - tiền.
Thả diều là trò chơi mà trong đó người chơi sẽ dựa vào sức gió của tự nhiên, đưa những cánh diều bay lên cao, sự kết nối của người chơi đối với con diều là thông qua một sợi dây dù đủ dài để đưa con diều bay lên tận trời xanh. Sợi dây sẽ giúp con người điều khiển con diều của mình bay đến độ cao nào hay bay đến nơi nào mình mong muốn. Khi thu diều lại thì người chơi cũng cuộn từ từ sợi dây dù này lại, con diều sẽ gần mặt đất hơn, và cuối cùng sẽ hạ cánh để được người chơi xếp lại, mang về nhà. Nguyên lí sử dụng của các con diều này là dựa vào sức gió. Vì vậy mà hôm nào trời không có gió thì không thể chơi thả diều.
Nhưng nếu trời có gió nhưng người chơi không có kĩ năng thả, không biết cách đưa con diều bay ngược chiều gió để lên không trung thì con diều cũng không bay được như mong muốn của chúng ta. Về cấu tạo của chiếc diều thì bao gồm phần khung diều, thường thì những phần khung diều này sẽ được làm bằng tre hoặc bằng gỗ, đây là phần chống đỡ cho con diều, giúp con diều có những hình dáng nhất định và có thể bay lên. Những chiếc tre hay gỗ dùng để làm khung diều này phải thật mảnh, dẻo dai bởi nếu quá nặng, to thì sẽ làm cho con diều trở nên nặng nề, từ đó khó có thể bay lên, hoặc bay được nhưng cũng không cao. Còn nếu như phần khung này có mềm, không có độ dẻo dai thì khi có gió lớn thì con diều sẽ bị gió thổi làm cho gãy khung.
Bộ phận thứ hai của diều đó là phần nguyên liệu phụ để trang trí cho con diều cũng là bộ phận giúp con diều có thể đón được gió và bay lên cao. Thông thường, phần áo diều này thường được làm bằng giấy báo, vải mỏng hoặc có thể bằng ni lông. Ngày nay, sự phát triển của đời sống tinh thần đã đòi hỏi tính thẩm mĩ cao hơn, do đó mà những con diều được trang trí với những màu sắc vô cùng bắt mắt, hình dáng con thuyền cũng được chế tạo thành nhiều kiểu khác nhau, có thể là diều hình con chim, con bươm bướm, chim phượng hoàng... Bộ phận không thể thiếu đó chính là dây dù. Dây dù buộc vào con diều để những người chơi có thể điều khiển con diều, nâng lên hay hạ xuống theo ý thích của mình, dây dù có thể làm bằng những sợi dây gai mỏng nhưng có độ bền cao, độ dài của dây này cũng từ tám đến mười mét.
Những con diều thường được mang đi thả vào những buổi chiều có gió, nhưng gió này chỉ vừa đủ để diều bay lên, không quá lớn, bởi nếu vậy con diều sẽ bị gió thổi cuốn đi mất. Thời điểm người ta đi thả diều đông nhất, đó chính là tầm chiều tà, vì lúc này thời tiết sẽ rất mát mẻ, lại có gió. Đặc biệt ở những vùng nông thôn, cứ buổi chiều đến là mọi người sẽ tụ tập nhau lại đến một khu đất trống, hút gió để cùng nhau thả diều. Hình ảnh những cậu bé chăn trâu thổi sáo, thả diều có lẽ đã quen thuộc đối với người dân Việt Nam. Sự sáng tạo của con người là không có giới hạn, cùng là con diều dùng để thả nhưng người ta có thể tạo cho nó rất nhiều màu sắc, hình dáng, thậm chí những con diều này còn phát ra những âm thanh du dương, êm ái. Con diều này được người ta gọi là diều sáo, theo đó thì những chiếc sáo nhỏ được thiết kế đặc biệt sẽ gắn lên thân của mỗi con diều. Để khi diều bay lên cao, có gió thì những con diều này sẽ tự động phát ra tiếng sáo.
Trò chơi thả diều là một trò chơi dân gian đã có từ rất lâu đời, người ta có thể chơi thả diều vào những lúc rảnh rỗi, giúp giải tỏa những căng thẳng sau những giờ làm việc mệt mỏi. Đặc biệt, ngày nay diều vẫn thu hút đông đảo sự yêu thích của rất nhiều người, hàng năm vẫn có rất nhiều các hội thi thả diều lớn được tổ chức, được rất nhiều người lựa chọn, tham gia.
Sau khi đã Giới thiệu một sản phẩm, một trò chơi mang bản sắc Việt Nam các em có thể đi vào Hãy kể về một kỉ niệm đáng nhớ của em đối với một con vật nuôi mà em yêu thích hoặc tham khảo Thuyết minh về một đồ dùng học tập nhằm củng cố kiến thức của mình.
Đối với những đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở vùng nông thôn Việt Nam, chắc chắn sẽ gắn bó với rất nhiều trò chơi dân gian được lưu truyền từ xưa đến nay. Tuổi thơ của họ gắn tràn ngập kỉ niệm về những ngày tháng êm đềm lớn lên bên nhau, cười giòn tan khi được ngắm cánh diều bay cao vút, reo hò ầm ĩ khi chơi trò trốn tìm...Đối với những đứa trẻ xóm chợ ở quê em, có lẽ trò chơi dân gian trốn tìm để lại trong nhau nhiều xúc cảm đáng nhớ nhất.
Từ khi chúng em sinh ra, trò chơi trốn tìm đã có, và cứ thế từ thế hệ này đến thế hệ khác xem đó như một trò chơi cần phải trải qua khi còn ấu thơ. Trò chơi mang đến nhiều tiếng cười reo rộn ràng nhất.
Trò chơi trốn tìm là trò chơi càng đông càng vui, trong đó sẽ có hai phe, một người đi tìm và một nhóm người sẽ đi trốn. Ai oản tù tỳ thua thì chắc chắn phải làm người đi tìm những người còn lại. Trốn tìm không phải trò chơi cần bất cứ dụng cụ gì hết, chỉ cần có người là có thể chơi được, ở bất cứ nơi đâu, trong nhà hay ngoài sân, trong những bụi rậm...Tuy nhiên mọi người thường chọn những nơi rộng rãi, có nhiều chỗ để trốn mới thú vị.
Người đi tìm phải bịt mắt, úp mặt vào tưởng và bắt đầu đếm từ một đến một trăm; đếm đến lúc nào không nghe tiếng ai trả lời nữa thì bắt đầu công cuộc đi tìm. Còn những người đi trốn thì cần phải khéo léo nhanh nhẹn tìm được nơi ẩn nấp an toàn, bí mật để người kia không tìm ra và mình thành người thắng cuộc. Cuộc chơi chỉ thực sự kết thúc khi người đi tìm tìm được hết số người đi trốn, còn nếu người đi tìm đầu hàng thì coi như đã thua và bắt đầu chơi lại từ đầu.
Thực ra trò chơi trốn tìm rất đơn giản, mang lại nhiều niềm vui, bất ngờ và hứng khởi cho mọi người. Một trò chơi dân gian bình dị, gần gũi và góp phần tạo nên "hồn" riêng của vùng quê nông thôn Việt Nam.
Giữa những đống rơm mẹ mới phơi hôm qua, còn thơm mùi rạ, trẻ con có thể chui rúc vào đó mà trốn đến nghẹt thở. Có những người thì lẻn vào góc nhà không có ánh điện, nín thở và lắng nghe tiếng bước chân của người tìm. Trò chơi đơn giản nhưng đầy hồi hộp và mong chờ, đầy bất ngờ.
Khi người đi tìm mệt mỏi, tìm mãi không ra đành bất lực tớ thua rồi, các bạn ra đi thì người trốn sẽ hét hò ầm ĩ "Tớ ở đây này, dễ thế cũng không tìm ra". Lúc đấy mắt của cái người đi tìm xị xuống y như bị ai lấy cắp đồ chơi.
Trò chơi trốn tìm như một nét văn hóa của nông thôn, những đứa trẻ lớn lên đều ít nhiều biết đến trò chơi thú vị, đơn giản này. Sẽ thật buồn nếu những đứa trẻ nông thôn nào không được trải qua những giây phút thoải mái, êm đềm, thư giãn và đầy hồi hộp như trò chơi này.
Trò chơi trốn tìm cứ thế ăn sâu vào tiềm thức của rất nhiều đứa trẻ nông thôn, theo chúng lớn lên, theo chúng đến những mảnh đất xa xôi. Mỗi người đều có một ký ức, những dòng chảy thời gian về tuổi thơ cứ thế neo đọng lại mãi trong kí ức. Khi tìm về tuổi thơ, bất chợt thấy mình trưởng thành, trò chơi ấy đang dần dần mất đi. Bất giác giật mình và buồn rười rượi.
Chiếc nón có từ bao giờ? Mỗi lần thấy bà, thấy mẹ đội nón, tôi cứ bâng khuâng về câu hỏi ấy.
Cái nón quê kiểng bình dị thật ưa nhìn. Xương nón làm bằng tre, nứa, được vót tròn óng chuốt, được kết thành những vòng tòn có đường kính khác nhau theo khuôn nón. Cái chóp nón lúc nào cũng hướng về trời cao. Lá lợp nón là sản phẩm của núi rừng. Việt Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn, Tây Nguyên, u Minh... là nguồn vô tận về lá nón. Lá cọ, lá kè cũng để làm nón. Chiếc nón mới làm ra lại được quết một lớp mỏng dầu rái (thảo mộc), óng ánh, vừa bền vừa đẹp.
Dáng hình chiếc nón cũng nhiều vẻ. Nó ba tầm quai thao của các cô gái Kinh Bắc trong lễ hội mùa xuân: hội Lim, hội chùa Dâu, hát Quan Họ. Lại có chiếc nón của các bà, các cô đội lúc làm đồng, vừa chắc bền, vừa tiện lợi. Che nắng mưa, làm quạt,... Các cô thôn nữ làm duyên sau vành nón ấy. Chiếc nón thanh nhẹ còn che chở cho đôi má hồng, má lúm đồng tiền thêm xinh thêm dòn.
Ai đã sáng tạo ra chiếc nón bài thơ xứ Huế? Lá nón trắng nõn nà; bài thơ mờ tỏ ẩn hiện. Chiếc quai nón bằng lụa thanh tao. Vành nón nghiêng nghiêng, dịu dàng, e lệ, thầm kín của cô gái miền núi Ngự sông Hương. Chả thế mà du khách, các cậu khóa ngẩn ngơ:
" Học trò xứ Quảng ra thi,
Gặp cô gái Huế bước đi không dành".
Còn có chiếc nón dấu anh lính thú đời xưa, mà khi xem phi ta mới biết:
"Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài"...
Mẹ em bảo nước ta nắng lắm mưa nhiều. Chiếc nón là vật dụng thân thiết của mọi người, nhất là nhà nông. Vừa rẻ, vừa tiện lợi. Nhẹ nhàng dễ mang theo. Có nhiều làng nghề thủ công làm nón nổi tiếng xưa nay từng được truyền tụng qua ca dao, dân ca:
"Muốn ăn cơm trắng, cá mè,
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông
hay:
" Hỡi cô đội nón ba tầm,
Có về Yên Phụ hôm rằm lại sang.
Phiên rằm chợ chính Yên Quang,
Yên Hoa anh đợi hoa nàng mới mua".
Chiếc nón làng Găng, chiếc nón bài thơ xứ Huế đã trở thành món quà lưu niệm của khách phương xa. Nghe nói trong phòng khách của nhà thơ Xi-mô-lốp (Nga) có chiếc điếu cày và chiếc nón bài thơ mà ông đã mang từ Việt Nam về. Và trong chúng ta, ai đã từng được xem điệu múa nón, hẳn đều tưởng như đàn bướm sặc sỡ đang rập rờn bay trong ngàn hoa. Hình ảnh cô nữ sinh Huế ngày xưa tưởng như gặp trong mộng:
"Những nàng thiếu nữ sông Hương,
Dạ thơm là phấn, má hường là son.
Tựu trường chân sút thon thon,
Lao xao nón mới màu sơn sáng ngời".
(Tựu trường - Nguyễn Bính)
Ngày nay, ở các đô thị, hầu như không thấy học sinh đội nón đến trường. Mà chỉ thấy những chiếc mũ vải đủ màu sắc xinh xinh. Nhưng trên đường làng, giữa các phiên chợ miền quê, chiếc nón lá màu trắng xinh xinh thanh nhẹ vẫn thấy nhiều và ưa nhìn, dễ mến. Các bà, các mẹ, các cô thôn nữ... làm sao rời được chiếc nón quê hương?
Trên con đường phát triển, công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta ngày một phong phú hơn, sang trọng hơn. Những giậu cúc tần, luỹ tre xanh, đồng lúa chín, con trâu hiền lành, tiếng sáo diều,... và chiếc nón ba tầm, chiếc nón bài thơ sẽ còn mãi trong tâm hồn nhân dân ta. Những câu hát bài ca về chiếc nón bình dị, quê kiểng ấy vẫn là sợi nhớ sợi thương giăng mắc trong hồn người, man mác và bâng khuâng có bao giờ vơi...
Cuối học kì I năm học lớp Bốn, tôi mới biết chơi diều. Thằng Lộc, thằng Tân, thằng Quỳnh... bạn học cùng lớp đã rủ tôi chơi diều và bày cho tôi cách làm diều.
Ba đứa bạn tôi, đứa nào cũng có hai con diều: một con diều sáo và một con diều bướm. Còn tôi mới tập tọng chơi diều nên chỉ có một con diều bướm mà thôi.
Con diều của tôi chỉ dài 40cm, rộng 15cm. Ở chính giữa thân diều thắt lại. Xương diều làm bằng tre, vót nhẵn, được chằng bằng sợi chỉ trắng. Hai cánh diều được dán bằng thứ giấy lụa màu rất mỏng và dai. Nếu gặp gió mạnh hay trời mưa cánh diều cũng không bị rã, bị rách nát. Chị gái tôi đã cho tôi mười nghìn đồng để mua một cuộn dây ni-lông. Thằng Lộc chuyên gia chế tạo diều đã bày tôi cách buộc, cách thắt dây lèo. Nó bày đi bày lại mãi mà tôi chẳng làm dược. Cả bọn cười và chê tôi là "con gà công nghiệp của họ Lê".
Diều của thằng Lộc rất to, hai cánh dài bằng sải tay, màu tím, có hai cái sáo bằng ngón chân cái, ngón tay cái. Con diều của bạn Tân, bạn Quỳnh chỉ có một sáo. Một con diều màu trắng, một con màu đỏ, rất xinh. Đứa nào cũng có một cuộn dây ni-lông dài hàng trăm mét. Trên bãi cỏ đầu làng, chiều chủ nhật nào chúng tôi cũng kéo nhau đến thả diều. Diều của các bạn tôi bay cao, chỉ nhìn thấy bằng lá bàng, bằng bàn tay, tiếng sáo kêu vi vu, véo von, có lúc rít lên giữa bầu trời. Còn con diều của tôi chỉ bay cao bằng ngọn đa, cứ chao đi chao lại như kẻ say rượu. Chúng tôi nằm ngửa trên bãi cỏ vừa ngắm diều bay vừa ngắm bầu trời xanh tháng mười. Tiếng sáo diều ngân vang, có lúc tôi cảm thấy hồn chúng tôi bay lên cùng cánh diều, bồng bềnh trôi theo những dải mây bông trắng nõn trên bầu trời thu, đi du ngoạn tới đỉnh núi Du, tới xứ thần tiên cổ tích.
Những buổi thả diều vui quá, thích quá. Tôi cảm thấy tâm hồn mình trong sáng hơn. Bầu trời xanh và cánh diều tuổi thơ đã làm cho tôi vươn lên học giỏi hơn.
Các bạn Quỳnh, Tân, Lộc thân thiết hơn và yêu quý tôi hơn hồi đầu năm học.
Trong trái tim mỗi người thì "quê hương" luôn có một vị trí đặc biệt dù có đi xa bất cứ nơi nào. Mỗi một miền quê, một mảnh đất đều khoác lên nó một màu sắc khiên con dân tự hào và Việt Nam ta cũng vậy. Ta tự hào biết bao về một quê hương có bản sắc văn hóa với bao nhiêu là sản phẩm dân tộc từ trang phục, thực phẩm, trò chơi..... và có lẽ áo dài là một nét dân tộc mà mỗi người dân Việt Nam không thể quên.
Lịch sử ra đời chiếc áo dài cũng được các nhà sử học nghiên cứu rất kĩ và khá phức tạp. Chiếc áo dài đầu tiên xuất hiện vào thơi Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do sự di cư, rời quê của hàng vạn người Minh Hương mà Chúa cho thiết kế ra chiếc áo dài để tạo nét riêng cho người Việt. Chiếc áo cứ thay đổi theo từng giai đoạn khác nhau với nhiều kiểu dáng khác nhau. Chiếc áo dài đầu tiên là chiếc áo giao lãnh, là loại áo giống như áo tứ thân nhưng mặc thì hai tà trước không buộc lại, mặc cùng vá thâm đen. Do việc đồng áng chiếc áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân với hai tà trước được cột lại cho gọn gàng, mặc cùng váy để tiện cho hoạt động lao động. Đó là chiếc áo tứ thân dành cho phụ nữ lao động bình dân. Còn áo tứ thân của phụ nữ tầng lớp quý tộc thì khác: ngoài cùng là chiếc áo the tham màu nâu nọn, chiếc áo thứ hai màu mỡ gà, chiếc áo thứ ba màu cánh sen. Khi mặc không cài kín cổ, để lộ ba màu áo. Bên trong mặc chiếc yếm đỏ thắm. Thắt lưng lụa màu hồng đào hoặc màu thiên lý. Mặc với váy đen, đầu đội nón quai thao trông rất duyên dáng.
Khi Pháp xâm lượ, chiếc áo dài thay đổi một lần nữa. Chiếc áo tứ thân được thay bằng chiếc áo dài. Chiếc áo dài do một họa sĩ Cát Tường sáng tạo và được gọi là áo dài Lemur mang nhiều nét phương Tây không phù hợp văn hóa Việt Nam nên không được mọi người ủng hộ. Năm 1934, họa sĩ Lê Phổ đã bỏ bớt những nét cứng cỏi của áo Lemur, đồng thời đưa các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân thành kiểu áo dài cổ kính, ôm sát thân, hai vạt trước thả tự do tung bay. Chiếc áo dài này hài hòa giữa cũ và mới phù hợp văn hóa Á Đông nên rất được ưa chuộng. Vì vậy chiếc áo dài ngày nay dần được thay đổi và hoàn thiện hơn để phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ và cuộc sống năng động của người phụ nữ ngày nay.
Về cấu tạo bao gồm: cổ áo, thân áo, tay áo... Cổ áo cổ điển cao khoảng 4-5 cm, khoét hình chữ V trước cổ. Kiểu cổ áo nà càng làm tôn nên vẻ đẹp chiếc cổ cao ba ngấn trắng ngần thanh tú của người phụ nữ. Ngày nay, kiểu cổ áo dài được biến tấu khá đa dạng như kiểu cổ trái tim, cổ tròn... Thân áo được tính từ cổ xuống phần eo. Thân áo dài được may vừa vặn ôm sát thân của người mặc, phần eo được chiết lại (hai bên ở thân sau và hai bên ở thân trước) làm nổi bật chiếc eo thon của người phụ nữ. Cúc áo dài thường được làm cúc bấm, được cài từ cổ qua vai xuống đến phần eo. Từ eo, thân áo dài được xẻ làm làm hai tà, vị trí xẻ tà là ở hai bên hông. Áo dài có hai tà: tà trước và tà sau và bắt buộc dài qua đầu gối. Tay áo được tính từ vai, may ôm sát cánh tay, dài đến qua khỏi cổ tay. Chiếc áo dài được mặc với quần thây cho chiếc váy đen ngày xưa. Quần áo dài được may chấm gót chân, ống quần rộng. Thường được may với vải mềm, rũ. Màu sắc thông dụng nhất là trắng. Nhưng xu thế thời trang hiện nay thì chiếc quần được chọn màu đi tông với màu áo. Chất liệu vải và màu sắc của chiếc áo dài: chọn vải để may áo dài ta nên chọn vải mềm và có đô rũ cao. Chất liệu vải để may áo rất đa dạng: nhung, voan, the, lụa.... màu sắc cũng rất phong phú. Chọn màu sắc để may áo tùy thuộc vào tuổi tác và sở thích từng người.
Chiếc áo dài ngày nay tuy không chỉ là trang phục lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam mà chiếc áo dài đã trở thành trang phục công sở như các ngàng nghề: tiếp viên hàng không, nữ giáo viên, học sinh... Ngoài ra ta có thể diện áo dài để dự tiệc, dạo phố vừa kín đáo, duyên dáng nhung không kém phần thời trang, thanh lịch.
Do chất liệu vải mềm mại nên áo đòi hỏi phải được bảo quản cẩn thận. Mặc xong nên giặt ngay để tránh ẩm mốc, giặt bằng tay, treo bằng móc áo, không phơi trực tiếp dưới ánh nắng tránh gây bạc màu. Sau đó ủi nhiệt độ vừa phải, treo bằng mắc áo và cất vào tủ. Bảo quản thật tốt thì áo dài sẽ bền, giữ được dáng áo và mình vải đẹp. Chiếc áo dài may đẹp thường là chỉ phải sắc sảo, ôm sát, vừa vặn với người mặc. ở Nam bộ, chiếc áo dài được cách điệu thành áo bà ba mặc với quần đen ống rộng cũng rất đẹp. Chiếc áo dài khi mặc thương đực đi kèm với chiếc nón lá đội đầu càng tôn vẻ đẹp dịu dàng duyên dáng nữ tính phụ nữ Việt Nam.
Hình ảnh về chiếc áo dài dân tộc vẫn còn đó, vẫn in đậm trong tâm trí mỗi con dân đất Việt, lấy đó như là tín hiệu, một nét bản sắc đáng tự hào và không lẫn vào đâu được.