1. Mở bài: Giới thiệu câu chuyện.
2. Thân bài:
- Kể lại diễn biến câu chuyện:
+ Chồng tôi là người có tính đa nghi, với vợ thường đề phòng quá sức.
+ Biết vậy, tôi luôn giữ gìn khuôn phép, không để gia đình xảy ra bất hòa.
+ Cuộc sống vợ chồng yên ấm chưa được bao lâu thì chồng bị bắt đi lính.
+ Lúc ấy, tôi đang có mang. Sau mười ngày chồng đi, tôi sinh con và đặt tên là Đản.
+ Tôi ở nhà nuôi con khôn lớn. Khi mẹ chồng mất, tôi lo liệu hậu sự chu toàn.
+ Kết thúc việc quân, chồng tôi trở về. Do hiểu lầm, chồng nghi ngờ tôi thất tiết.
+ Tôi dùng hết lời lẽ để minh oan nhưng chàng vẫn không tin. Trong lúc cùng quẫn, tôi đã gieo mình xuống sông tự vẫn, nhờ thần sông chứng giám cho sự trong sạch của mình.
+ Tôi may mắn được Linh Phi cứu giúp, nương náu dưới thủy cung. Một lần, tôi gặp được Phan Lang - người cùng làng xưa kia đã có ơn cứu mạng Linh Phi. Tôi nhờ Phan Lang chuyển lời đến Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình.
+ Khi Trương Sinh lập đàn giải oan, tôi hiện lên, nói lời từ biệt rồi trở về thủy cung.
3. Kết bài: Nêu suy nghĩ, cảm xúc về câu chuyện.
Tôi tên là Vũ Thị Thiết, người làng Nam Xương. Trước nay vẫn luôn được mọi người yêu quý bởi tư dung tốt đẹp. Do cảm mến dung hạnh, Trương Sinh xin mẹ đem trăm lạng vàng đến nhà hỏi cưới tôi. Được sự chấp thuận của phụ mẫu, tôi trở thành vợ của Trương Sinh. Hạnh phúc chẳng tày gang thì chồng tôi bị gọi đi lính đánh giặc.
Ngày tiễn đưa, ai cũng xúc động nghẹn ngào. Mẹ chồng tôi dặn dò con nơi chiến trường phải cẩn thận. Còn tôi, tôi bùi ngùi rót chén rượu đầy rồi thề nguyện sẽ ở nhà giữ tiết hạnh chờ chồng trở về. Nói dứt lời, tất cả đều ứa hai hàng lệ. Chồng tôi dứt áo ra đi.
Khi chồng đi được mươi ngày, tôi hạ sinh ra một bé trai kháu khỉnh. Tôi đặt tên con là Đản rồi cố gắng nuôi dạy nó khôn lớn.
Vì quá thương nhớ con mà mẹ chồng tôi ngày một già yếu. Dù đã làm mọi cách nhưng bệnh tình không thuyên giảm. Biết mình chẳng sống được bao, bà gọi tôi đến rồi nói lời trăn trối. Bà vừa nói xong thì trút hơi thở cuối cùng. Tôi cố gắng lo liệu việc ma chay tế lễ chu toàn.
Qua năm sau, chồng tôi từ chiến trận trở về. Biết mẹ đã mất, chàng vô cùng đau xót. Chàng dẫn con đến bên mộ mẹ. Đến trưa, hai cha con từ mộ về nhà. Thấy nét mặt chồng hiện lên sự tức giận, tôi toan hỏi thì chàng quát um. Hóa ra, chàng nghi ngờ tôi trăng hoa, trai gái trong lúc xa chồng. Tôi dùng hết lời để minh oan nhưng chàng không tin. Vì quá đau đớn, tôi ngửa mặt lên trời than khóc rồi gieo mình xuống sông.
May mắn thay, tôi được Linh Phi cứu giúp, cho nương náu ở thủy cung. Tại đây tôi gặp được người cùng làng tên là Phan Lang. Phan Lang là ân nhân cứu mạng của Linh Phi nên được người giúp đỡ trong cơn biến loạn. Qua lời kể, tôi biết được hiểu lầm ngày nào đã được hóa giải. Hóa ra, nguồn cơn mọi chuyện là do lời nói ngây thơ của bé Đản. Khi xưa, vì thương con thiếu vắng tình yêu thương của cha, tôi đã trỏ bóng mình trên vách bảo là cha Đản. Vậy nên, khi gặp cha, Đản đã bảo: "Hóa ra ông cũng là cha tôi ư?". Một lần, trong đêm thanh vắng, thấy bóng cha trên vách, Đản liền reo lên. Đến đây, Trương Sinh đã nhận ra lỗi lầm, dù rất ân hận nhưng chàng không thể làm gì khác. Nghe đến đây, tôi thương cảm cho hoàn cảnh đơn côi của hai cha con vô cùng.
Phan Lang khuyên tôi trở về nhưng tôi lấy làm xấu hổ, cảm thấy bản thân không còn mặt mũi nào nhìn mọi người. Phan Lang nhắc đến cảnh hoang vắng, quạnh quẽ nơi quê nhà, tôi liền thay đổi quyết định. Trong ngày Phan Lang trở về, tôi gửi anh ta chiếc hoa vàng và dặn: "Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn chút tình xưa nghĩa cũ, hãy lập đàn giải oan, tôi sẽ quay trở về". Đúng như lời dặn, Trương Sinh lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Đến ngày thứ ba, tôi ngồi trên kiệu, hiện lên giữa dòng, nói lời cảm tạ rồi từ biệt, quay trở về thủy cung.
Đã hơn một năm trôi qua kể từ khi tôi nói lời tạ từ với Trương Sinh. Mặc dù cuộc sống ở thủy cung rất vui vẻ, náo nhiệt nhưng chưa lúc nào tôi ngừng nhớ về những chuyện đã qua.
Tôi tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Mọi người thường nhận xét về tôi là người phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na. Đến tuổi lập thất, Trương Sinh đem một trăm lạng vàng đến nhà tôi hỏi cưới. Được sự đồng ý của cha mẹ, tôi nên vợ nên chồng với Trương Sinh. Biết chồng có tính đa nghi, lại hay phòng ngừa quá sức, tôi luôn cố gắng giữ gìn khuôn phép, không để lúc nào gia đình bất hòa. Cuộc sống yên ấm chưa được bao lâu thì chồng tôi bị bắt đi lính đánh giặc.
Trong buổi tiễn đưa, mẹ chồng tôi dặn dò kĩ lưỡng. Còn tôi nâng chén rượu đầy rồi nói với chồng những lời từ tận tâm can. Hai vợ chồng nhìn nhau, trào dâng nước mắt. Tất cả mọi người đều không giấu nổi buồn bã, xúc động. Nói xong, chàng dứt áo ra đi. Sau khi chồng đi được mười ngày, tôi sinh con trai và đặt tên cho thằng bé là Đản. Tôi ở nhà một mình nuôi con và một lòng thủy chung chờ chồng về.
Mẹ chồng tôi vì thương nhớ con mà dần đổ bệnh. Tôi làm mọi cách từ thuốc thang, lễ bái thần phật đến hết lời khuyên lơn nhưng không được. Biết mình như "ngọn đèn trước gió", bà gọi tôi đến dặn dò rồi từ giã dương gian. Tôi thương xót vô cùng, cố gắng làm ma chay cẩn thận.
Độ một năm sau, khi đã đẩy lùi quân giặc, chồng tôi từ chiến trận trở về. Thấy mẹ đã mất, lòng chàng không khỏi xót xa. Chàng bế con ra mộ mẹ. Đến trưa, hai cha con về. Chàng một mực nghi ngờ tôi thất tiết. Chồng tôi quát um. Tôi vừa khóc vừa nói:
- Xin chàng hãy tin thiếp. Kể từ ngày chàng đi, thiếp luôn một mực thủy chung, chưa từng nghĩ đến chuyện quan hệ trai gái không đứng đắn. Đâu có sự mất nết, hư thân như những lời chàng đã nói. Mong chàng đừng một mực đổ oan cho thiếp.
Dù nói thế nào, Trương Sinh vẫn không tin. Tôi tắm gội sạch sẽ, chạy ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời than rằng: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, bị chồng con rẫy bỏ. Thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ." Nói dứt lời, tôi gieo mình xuống dòng nước.
Sau đó, tôi được Linh Phi cho nương náu ở Thủy Cung. Một hôm, tôi gặp Phan Lang. Phan Lang là ân nhân của Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi giúp đỡ. Qua trò chuyện, Phan Lang kể rằng: chồng tôi tuy giận nhưng thấy vợ ra đi vẫn động lòng thương xót, cố gắng ra sông vớt xác vợ về. Một đêm nọ, chàng ngồi dưới ngọn đèn khuya, đứa con thấy vậy mới chỉ vào bóng nói cha về. Khi ấy, Trương Sinh mới hiểu ra ngọn ngành câu chuyện. Hóa ra, trong cơn nóng giận, chàng đã hiểu lầm tôi thất tiết vì cái bóng trên vách - "người cha" mà đêm đêm tôi vẫn đùa con lúc chàng vắng nhà. Dù hối hận nhưng mọi chuyện đã muộn màng. Tôi nghe thế cảm thấy đau đớn, nhớ thương hai cha con vô cùng. Ngôi nhà giờ đây chắc trở nên vắng vẻ, quạnh quẽ lắm!
Biết được lòng tôi, Phan Lang khuyên tôi nên trở về dương thế. Ban đầu, tôi không đồng ý vì chẳng còn mặt mũi nào nhìn mọi người. Song cảm vì nỗi nhớ quê nhà, tôi quyết định gửi một chiếc hoa vàng và nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh. Đúng như lời dặn, Trương Sinh lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Đến ngày thứ ba, tôi ngồi trên kiệu hoa, theo sau là năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng hiện lên giữa dòng. Nói xong lời từ biệt, tôi trở về thủy cung.
Câu chuyện buồn ấy vẫn luôn ám ảnh tôi khôn nguôi. Chưa có giây phút nào tôi ngừng nhớ về gia đình, chồng con. Nếu không có hiểu lầm, chắc hẳn bây giờ tôi vẫn hạnh phúc với những người thân yêu.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Dàn ý và bài văn mẫu cho đề Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương, Ngữ văn 9 đã cung cấp cho các em một số gợi ý cần thiết khi kể lại một tác phẩm văn học. Đừng bỏ lỡ các bài văn mẫu lớp 9 khác trên trang bằng cách ghé thăm thường xuyên Taimienphi.vn, các em nhé!